Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm và vị trí của công đoàn bộ phận
- 2. Chức năng của công đoàn bộ phận
- 2.1 Cân bằng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động (công ty) và người lao động trong công ty
- 2.2 Giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật của người sử dụng lao động trong công ty
- 2.3 Đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động trong doanh nghiệp
1. Khái niệm và vị trí của công đoàn bộ phận
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 13 Điều lệ công đoàn năm 2020 ban hành theo Quyết định số 174/QĐ-TLĐ ngày 02/02/2020 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Khoản 11.3 Điều 11 Hướng dẫn số 03/HD-TLĐ năm 2020 quy định về hình thức tổ chức của công đoàn cơ sở. Cụ thể trong một công ty có thành lập công đoàn cơ sở thì tùy theo số lượng các đoàn viên tham gia công đoàn cơ sở cũng như là các tính chất, địa bàn hoạt động của công ty thì công ty có thể tổ chức công đoàn cơ sở của mình theo các cơ cấu tổ chức bao gồm:
- Tổ chức các công đoàn cơ sở thành viên;
- Công đoàn bộ phận;
- Tổ công đoàn.
Căn cứ vào quy định nêu trên có thể hiểu công đoàn bộ phận là một bộ phận của công đoàn cơ sở trong công ty, tuy nhiên không phải công đoàn cơ sở nào cũng bắt buộc phải có công đoàn bộ phận mà tùy vào từng công ty sẽ quyết định có thành lập công đoàn bộ phận hay không. Thường thì đối với những công ty (đơn vị sử dụng lao động) có quy mô lớn, nhiều các phòng ban, cơ sở thì những đơn vị này sẽ thành lập các công đoàn bộ phận để có thể quản lý, gây sức ảnh hưởng đến từng bộ phận mà công đoàn bộ phận này được giao quyền. Còn đối với các doanh nghiệp nhỏ thì thường họ sẽ không cần phải có sự phân công chi phối cho từng bộ phận một thì họ chỉ thành lập công đoàn cơ sở mà không nhất thiết cần thành lập công đoàn bộ phận và trường hợp này thường người ta sẽ đồng nhất khái niệm công đoàn bộ phận cũng sẽ là công đoàn cơ sở.
2. Chức năng của công đoàn bộ phận
2.1 Cân bằng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động (công ty) và người lao động trong công ty
Người sử dụng lao động và người lao động luôn có một mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau về quyền và nghĩa vụ. Nếu như trong trường hợp có một bên vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động thì bên kia sẽ bị ảnh hưởng đến quyền lợi của mình.
Mặc dù trên lý thuyết mối quan hệ này là một mối quan hệ cân bằng về mặt lợi ích. Tuy nhiên trên thực tế thì người lao động luôn là bên yếu thế hơn khi xảy ra những xung đột về lợi ích nên cần phải có một bên trung gian đứng ra để cân bằng lợi ích khi xảy ra xung đột. Đây cũng là một trong những lý do mà công đoàn ra đời. Công đoàn được thành lập nên từ những người lao động nên có mối quan hệ rất gần gũi với những người lao động trong công ty, nên trong quá trình tiếp xúc, trao đổi có thể dễ dàng nắm bắt được những mâu thuẫn tiềm ẩn giữa người sử dụng lao động và người lao động trước khi những mâu thuẫn này xảy ra các xung đột thực sự. Từ đó có thể tìm ra được những phương án để điều chỉnh được mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trở về trạng thái cân bằng. Công đoàn sẽ có trách nhiệm vận động và giám sát người sử dụng lao động cũng như người lao động phải thực hiện đầy đủ và đúng các nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng lao động hay là các thảo ước lao động tập thể đã được ký kết giữa hai bên với nhau. Ngoài ra công đoàn cũng là đơn vị thay mặt cho người lao động đứng ra yêu cầu các quyền lợi cho người lao động khi phát hiện thấy bên công ty có những hành vi vi phạm những nội dung đã thỏa thuận từ trước dẫn tới ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
2.2 Giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật của người sử dụng lao động trong công ty
Trong bất cứ một mối quan hệ nào thì các bên đều ưu tiên về lợi ích của mình đầu tiên, chẳng ai muốn lợi ích của mình bị ảnh hưởng cả. Do đó khi có thay đổi các chính sách ở trong công ty người sử dụng lao động thường sẽ quan tâm đến lợi ích của mình đạt được khi thực hiện nhiều hơn. Mà người sử dụng lao động phần lớn họ đều là những người có thể nắm được các quy định của pháp luật hoặc có một bộ phận có thể hỗ trợ người sử dụng lao động về các quy định của pháp luật. Còn người lao động thì khác, họ không nắm được các quy định của pháp luật nên cũng không thể biết được quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu và có bị xâm phạm hay không.
Vậy nên công đoàn bộ phận sẽ là đơn vị đứng ra giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật của người sử dụng lao động ví dụ như giám sát việc ký kết hợp đồng lao động cũng như là các nội dung được thể hiện trong hợp đồng lao động. Phối hợp với người sử dụng lao động để xây dựng các văn bản trong công ty như: nội quy lao động, các thảo ước lao động tập thể,....Ngoài ra công đoàn cũng có thể hỗ trợ giải đáp các thắc mắc cho người lao động về các quy định của pháp luật, cũng như là các quyền lợi liên quan đến người lao động khi thực hiện hợp đồng lao động. Đồng thời cũng là đơn vị tác động đến công ty để yêu cầu công ty thực hiện đầy đủ các trách nhiệm liên quan đến bảo hiểm và các quyền lợi khác cho người lao động.
Ngoài ra công đoàn cũng là đơn vị đưa ý kiến của người lao động lên để có thể tìm được tiếng nói chung giữa người lao động và người sử dụng lao động. Khi hai bên đã đạt được tiếng nói chung thì sẽ hạn chế tối đa nhất về các xung đột có thể xảy ra. Công đoàn cũng sẽ tham gia vào việc hỗ trợ người sử dụng lao động xây dựng các thang lương, bảng lương, nội quy lao động trong công ty và các thỏa ước lao động tập thể sao cho cân bằng tối đa nhất các quyền và lợi ích của cả hai bên.
2.3 Đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động trong doanh nghiệp
Công đoàn bộ phận dựa trên am hiểu của mình về pháp luật cũng như là các văn bản trong công ty thể hiện về các quyền lợi của người lao động trong công ty như các thảo ước lao động tập thể được ký kết giữa công ty và người lao động, nội quy lao động trong công ty, điều lệ trong công ty,...sẽ phổ biến cho người lao động trong doanh nghiệp biết về và nắm vững về các quyền lợi của mình được hưởng trong công ty, cũng như phạm vi trách nhiệm của người lao động trong công ty, những việc người lao động có thể được làm hoặc không được làm,....Đồng thời cũng phải giám sát việc công ty thực hiện những nội dung đã được thỏa thuận đấy ra sao, có đúng và đủ như những cam kết đã được đưa ra không.
Khi người lao động đã được phổ biến đầy đủ về quyền lợi của mình và nắm chắc về những quyền lợi và trách nhiệm của mình. Khi đã nắm rõ được những nội dung này thì người lao động sẽ biết khi nào quyền lợi của mình bị xâm phạm và sẽ kịp thời phản ánh lại khi nhận thấy có dấu hiệu bị xâm phạm về quyền lợi.
Mọi vướng mắc quý khách hàng vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài, gọi số: 19006162 hoặc liên hệ trực tiếp với văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác từ quý khách hàng!