Mục lục bài viết
- 1. Giải quyết khiếu nại vi phạm quyền con người theo cơ chế dựa trên Hiến chương
- 2. Các nghị quyết về những vi phạm quyền con người
- 3. Tính tin cậy và nguồn của thông tin
- 4. Giải quyết những tình huống vi phạm quyền con người theo cơ chế dựa trên Hiến chương
- 5. Những cải tiến về tuyển chọn và quản lý các chuyên gia
1. Giải quyết khiếu nại vi phạm quyền con người theo cơ chế dựa trên Hiến chương
Vấn đề tiếp nhận và xử lý những khiếu nại về vi phạm quyền con người đầu tiên được quy định tại điểm (b) Điều 87 c ủa Hiến chương Liên hợp quốc (tuy nhiên, chỉ giới hạn trong việc xem xét các đơn khiếu nại, thỉnh cầu liên quan đến các lãnh thổ quản thác, về sau thêm chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi), sau đó, được đề cập trong nhiều nghị quyết của ECOSOC, đặc biệt trong các Nghị quyết 728 F (XXVIII) ngày 30-7-1959, 227 (X) ngày 17-02-1950, 474 A (XV) ngày 09-4-1953, 607 (XXI) ngày 01-5-1956, 1235 (XLII) ngày 06-6-1967 và 1503 (XLCIII) ngày 27-3-1970... Mỗi nghị quyết đề cập việc tiếp nhận và xử lý những khiếu nại về những vi phạm quyền con người trên những lĩnh vực nhất định.
2. Các nghị quyết về những vi phạm quyền con người
Nghị quyết 728F (XXVIII) quy định trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại về các vi phạm quyền con người thuộc về Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Trách nhiệm xem xét khiếu nại thuộc về UNCHR và Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Giới hạn xử lý của thủ tục này là gửi bản sao các khiếu nại đến quốc gia có liên quan và yêu cầu phúc đáp về những khiếu nại đó. Thông tin về tác giả của các khiếu nại được giữ kín, trừ khi tác giả đó cho phép công khai. Các Nghị quyết 227(X), 474A(XV) quy định về việc xử lý những khiếu nại liên quan đến các vi phạm các quyền về công đoàn. Trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại cũng thuộc về Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Các khiếu nại nhận được sẽ giải quyết theo hai hướng: (a) Nếu liên quan đến một quốc gia thành viên của ILO, khiếu nại sẽ được chuyển cho ILO giải quyết theo trình tự thủ tục của cơ quan chuyên môn này; (b) Nếu liên quan đến một quốc gia không phải là thành viên của ILO, khiếu nại sẽ được chuyển cho ECOSOC để thoả thuận với quốc gia có liên quan về việc chuyển vụ việc cho ILO xem xét. Trường hợp không đạt được sự nhất trí về việc đó, vụ việc sẽ do ECOSOC trực tiếp giải quyết hoặc chuyển cho UNUNCHR xem xét. Nghị quyết 607 (XXI) quy định việc xử lý các khiếu nại liên quan đến vấn đề lao động cưỡng bức. Theo Nghị quyết này, tất cả các khiếu nại mà Tổng thư ký Liên hợp quốc nhận được liên quan đến vấn đề lao động cưỡng bức đều được chuyển sang cho ILO giải quyết. Nghị quyết 1235 (XLII) quy định về thẩm quyền của UNCHR và Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, trên cơ sở các khiếu nại do Tổng thư ký Liên hợp quốc nhận được theo thủ tục 728F (XXVIII), được thẩm tra những khiếu nại liên quan đến những vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, rộng khắp (bao gồm những hành động chia rẽ và phân biệt chủng tộc, chính sách Apácthai) và có quyền quyết định có hay không tiến hành nghiên cứu kỹ và sau đó đưa ra khuyến nghị về hướng giải quyết với ECOSOC. Nghị quyết 1503 (XLCIII) tổng hợp và bổ sung tất cả các thủ tục nêu trên. Theo thủ tục 1503, Tiểu ban về thúc đẩy và bảo vệ quyền có trách nhiệm chỉ định một nhóm công tác gồm 5 chuyên gia, họp hàng năm trong hai tuần để xem xét những khiếu nại cá nhân về vi phạm quyền con người và những phúc đáp có liên quan của các quốc gia thành viên do Tổng Thư ký nhận được theo quy định tại Nghị quyết 728 F (XXVIII). Sau khi xem xét các khiếu nại đó, Tiểu ban phải quyết định những khiếu nại nào cần chuyển lên UNCHR để tiếp tục xử lý. Trách nhiệm của UNCHR là phải xem xét các khiếu nại do Tiểu ban chuyển lên, sau đó, quyết định: (a) Những tình huống nào cần tiến hành nghiên cứu kỹ và báo cáo, khuyến nghị với ECOSOC theo quy định tại Nghị quyết 1235 (XLII), (b) Những tình huống nào cần phải chỉ định một nhóm công tác lâm thời để tiến hành điều tra tại nơi xảy ra vụ việc, nếu có sự đồng ý của quốc gia liên quan. Để thực hiện nhiệm vụ này, UNCHR cũng thiết lập một nhóm công tác gồm 5 chuyên gia.
3. Tính tin cậy và nguồn của thông tin
Thủ tục 1503 quy định rất chặt chẽ về tính tin cậy và nguồn của thông tin, theo đó, một khiếu nại chỉ được coi là đáng tin cậy khi đã được đối chiếu với phúc đáp của các quốc gia có liên quan và cho thấy có cơ sở chắc chắn về việc quốc gia đó có những vi phạm nhân quyền thô bạo, rộng khắp. Về nguồn, một khiếu nại chỉ có thể được chấp nhận khi nó được cung cấp bởi chính những nạn nhân của hành động vi phạm quyền con người, hoặc từ những cá nhân hoặc nhóm trực tiếp chứng kiến những vi phạm đó. Khiếu nại do các tổ chức phi chính phủ trình lên chỉ được chấp nhận nếu tổ chức phi chính phủ đó có quy chế tư vấn với ECOSOC và đưa ra được những bằng chứng đáng tin cậy về sự vi phạm. Những tố cáo lấy từ những nguồn không trực tiếp cũng có thể được chấp nhận với điều kiện chủ thể tố cáo đưa ra được những chứng cứ rõ ràng, tuy nhiên, nếu thông tin được lấy từ các phương tiện thông tin đại chúng hoặc nặc danh thì không được chấp nhận. Theo thủ tục 1503, tất cả những tài liệu, thông tin về khiếu nại, tố cáo phải giữ bí mật cho tới khi UNCHR đưa ra những khuyến nghị về các biện pháp xử lý với ECOSOC1. Trong quá trình xem xét khiếu nại, các quốc gia có liên quan có quyền tham dự, tranh luận và trình bày quan điểm về vụ việc. Như đã đề cập ở phần trên, UNHRC kế thừa thủ tục 1503 của UNCHR nhưng đổi tên và có những cải tiến để nâng cao hiệu quả của nó. Theo quy định của UNHRC, Hội đồng sẽ thành lập hai nhóm công tác để xem xét các khiếu nại về những vi phạm quyền con người nghiêm trọng và mang tính hệ thống do các cá nhân, nhóm cá nhân gửi lên rồi báo cáo và đề xuất hướng xử lý với Hội đồng. Những điều kiện để một đơn khiếu nại được xem xét theo thủ tục trên của UNHRC bao gồm: (i) Nội dung khiếu nại không mang động cơ chính trị và phải phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, UDHR và các văn kiện quốc tế khác về quyền con người; (ii) Có dữ kiện mô tả vi phạm quyền con người, bao gồm quyền giả thiết là bị vi phạm; (iii) Ngôn ngữ không được lạm dụng; (iv) Được gửi bởi một cá nhân hoặc một nhóm người coi mình là nạn nhân của vi phạm, hoặc bởi bất kỳ người hoặc nhóm người, bao gồm các tổ chức phi chính phủ mà hành động thiện chí theo các nguyên tắc của quyền con người và có biết trực tiếp và đáng tin cậy về vi phạm quyền con người; (v) Không được chỉ dựa vào thông tin trên các phương tiện truyền thông; (vi) Không được đưa ra vụ việc đã được giải quyết bởi các thủ tục đặc biệt, cơ quan giám sát công ước hoặc cơ quan khác của Liên hợp quốc hoặc cơ chế khu vực về quyền con người; (vii) Đã sử dụng hết các thủ tục giải quyết vụ việc ở trong nước nhưng không đạt kết quả, hoặc việc giải quyết theo các thủ tục đó bị trì hoãn, kéo dài một cách vô lý. Việc giải quyết các khiếu nại sẽ theo nguyên tắc lấy nạn nhân làm trung tâm và được tiến hành bí mật, nhanh chóng. Cả hai nhóm công tác sẽ họp hai lần một năm, mỗi lần 5 ngày để xem xét các khiếu nại.
4. Giải quyết những tình huống vi phạm quyền con người theo cơ chế dựa trên Hiến chương
Bên cạnh việc tiếp nhận và xem xét các khiếu nại về vi phạm quyền con người, ĐHĐ, ECOSOC và UNHRC (trước đây là UNCHR) đều có thể thực hiện các hoạt động điều tra bất thường (nonconventional investigative procedures – còn được gọi là các thủ tục đặc biệt) những tình huống vi phạm con người nghiêm trọng diễn ra ở một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Việc điều tra này được tiến hành thông qua các nhóm công tác (working group) hoặc các báo cáo viên đặc biệt (special rapporteur), hay chuyên gia độc lập (independent expert). Trong những trường hợp ngoại lệ, Tổng Thư ký cũng có thẩm quyền chỉ định các đại diện đặc biệt (special representative) để thực hiện nhiệm vụ này. Các thủ tục kể trên được bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 1980 theo hai hình thức: (i) Điều tra những vấn đề nghiêm trọng về quyền con người (không hạn chế về lãnh thổ, gọi là điều tra theo chủ đề - thematic procedures), và (ii) Điều tra những vi phạm quyền con người nghiêm trọng xảy ra ở một quốc gia (gọi là điều tra theo quốc gia – countrybased procedures). Đơn vị đầu tiên được UNCHR thiết lập là Nhóm công tác về các vụ cưỡng bức mất tích (1980). Tiếp theo đó, UNCHR đã chỉ định các báo cáo viên đặc biệt về các hình thức hành quyết độc đoán (1982), báo cáo viên đặc biệt về tra tấn (1985), báo cáo viên đặc biệt về các hình thức phân biệt đối xử về tôn giáo, tín ngưỡng (1986), báo cáo viên đặc biệt về vấn đề lính đánh thuê (1988), Nhóm công tác về các vụ bắt giữ tuỳ tiện (1991)... Các nhóm công tác, báo cáo viên đặc biệt kể trên có quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin có liên quan từ tất cả các nguồn có thể và quyết định các biện pháp điều tra thích hợp để làm rõ vấn đề, sau đó báo cáo với UNCHR trong phiên họp gần nhất.
5. Những cải tiến về tuyển chọn và quản lý các chuyên gia
Như đã đề cập ở phần trên, UNHRC tiếp tục thực hiện các thủ tục đặc biệt như trước đây UNCHR đã làm, nhưng có những cải tiến nhất định về tuyển chọn và quản lý các chuyên gia nhằm nâng cao hiệu quả của các thủ tục này. Tính đến đầu năm 2009, đã có 36 báo cáo viên đặc biệt, đại diện đặc biệt, chuyên gia độc lập được bổ nhiệm và ba nhóm công tác được thành lập để thực hiện hoạt động điều tra bất thường nêu trên. Một số quốc gia đã từng là địa bàn thực hiện thủ tục này bao gồm: Các lãnh thổ Palextin (1993, 2008), Haiti (1995), Libêria (2003), Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (2005), Burundi (2005), Campuchia (2005), Cộng hòa dân chủ nhân dân Cônggô (2005), Xuđăng (2005), Xômali (2008), Mianma (2008)... Các vấn đề quyền con người đã trở thành chủ đề của những cuộc điều tra theo thủ tục này bao gồm: Nơi cư trú (2008), Các hình thức nô lệ hiện đại (2007), Quyền giáo dục (2004), Tác động của các chính sách cải cách kinh tế và nợ nước ngoài đối với quyền con người (2008), Thi hành tử hình vô căn cứ hoặc tùy tiện (2004), Quyền có lương thực (2008), Tự do ngôn luận và biểu đạt (2002), Tự do tôn giáo, tín ngưỡng (2004), Hoàn cảnh của những người bảo vệ quyền con người (2008), Tính độc lập của thẩm phán và luật sư (2003), Các vấn đề của người thiểu số (2005), Sức khỏe thể chất và tinh thần (2005), Bảo vệ quyền con người trong chống khủng bố (2005), Phân biệt chủng tộc và sự bất khoan dung (2008), Buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm đồi trụy trẻ em (2008), Tra tấn (2004), Buôn người (2004), Sử dụng lính đánh thuê chống lại quyền tự quyết của các dân tộc (2004), Bạo lực chống lại phụ nữ (2003), Quyền và sự nghèo đói cùng cực (2004), Quyền và sự đoàn kết quốc tế (2005), Quyền con người và việc vận chuyển chất thải bất hợp pháp (2004), Quyền con người và các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp khác (2005), Quyền của người bản địa (2008), Quyền của những người bị buộc rời bỏ nơi ở (2004), Quyền của người lao động nhập cư (2005)…