Mục lục bài viết
- 1. Giáo dục quyền con người có ý nghĩa như thế nào?
- 2. Tuyên ngôn về Giáo dục và đào tạo về nhân quyền (2011) có nội dung cơ bản gì?
- 3. Có các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nào?
- 4. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người khu vực ASEAN được thành lập như thế nào?
- 5. Tuyển ngôn nhân quyên ASEAN (2012) có những nội dung cơ bản gì?
- 6. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cấp quốc gia là gì?
Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
1. Giáo dục quyền con người có ý nghĩa như thế nào?
Giáo dục quyền con người (human rights education) thường được hiểu là những hoạt động giảng dạy, tập huấn, đào tạo và phổ biến- thông tin vê quyền con người. Theo Liên họp quốc, mục đích cuối cùng của hoạt động giáo dục về quyền con người, dù được tiến hành ở bất cứ đâu, bởi bất cứ chủ thể nào, cũng nhằm để xây dựng một nên văn hóa quyền con người (human rights culture) về những mục tiêu cụ thể, giáo dục quyền con người cần hướng đến:
+ Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người;
+ Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người;
+ Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giói và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn rigữ;
+ Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của xã hội, và
+ Hỗ trợ các hoạt động của Liên hợp quốc về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Chính bởi tầm quan trọng của tri thức về quyền con người và vai trò của giáo dục trong việc phổ biến tri thức về quyền con người, trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Liên hợp quốc đã khẳng định rằng, một trong các mục tiêu của giáo dục là phải nhằm: "...thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người" (Điều 26). Giáo dục nhằm thúc đẩy sự tôn trọng quyền con người còn được đề cao trong nhiều văn kiện quốc tế khác của Liên hợp quốc như Công ước quốc tế vê cấc quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (Điều 13), Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Điều 29) và đặc biệt là trong Tuyên bố Vienna và Chương trình hành động được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Vienna (Áo) năm 1993 (các đoạn 78-82).
2. Tuyên ngôn về Giáo dục và đào tạo về nhân quyền (2011) có nội dung cơ bản gì?
Ngày 9/12/2011, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua "Tuyên ngôn về Giáo dục và đào tạo nhân quyền" (UN Declaration on Human Rights Education and Training) với 14 điều khoản. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử vì lần đầu tiên đã khẳng định quyền của mọi cá nhân được hưởng giáo dục nhân quyền. Nói cách khác, các nhà nước có nghĩa vụ pháp lý bảo đảm và thúc đẩy quyền này của người dân. Đây cũng là một văn kiện nền tảng tạo khuôn khổ cho các quốc gia hoàn thiện chính sách của mình thúc đẩy giáo dục trong lĩnh vực này.
Tuyên ngôn, xuất phát từ quyền của mọi cá nhân được biết, tìm kiếm và tiếp nhận thông tin về tất cả các quyền con người, quyền tiếp cận với giáo dục và đào tạo về quyền con người và vai trò thiết yếu của giáo dục và đào tạo về quyền con người (Điều 1), đã đề ra các nguyên tắc cơ bản của giáo dục quyền con người (bình đẳng, dễ tiếp cận, sẵn có, xem xét đến các hoàn cảnh khác nhau về kinh tế, xã hội và văn hóa...). Tuyên ngôn cũng xác định khái quát các mục tiêu, hình thức, phương thức giáo dục nhân quyền ở mọi cấp độ, moi giai đoạn trong đời người.
Tuyên ngôn khẳng định các nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, cơ quan có trách nhiệm chính, trong việc thúc đẩy và đảm bảo rằng việc giáo dục và đào tạo về nhân quyền được xây dựng và thực hiện, tạo ra một môi trường an toàn và khuyến khích sự tham gia của xã hội dân sự, khu vực tư nhân cũng như các bên tham gia có liên quan khác trong giáo dục và đào tạo về nhân quyền. Nhà nước, các cơ quan nhà nước có liên quan phải đảm bảo việc đào tạo thích đáng về nhân quyền cho các cán bộ nhà nước, công chức, thẩm phán, nhân viên hành pháp và nhân sự trong quân đội, cũng như thúc đẩy việc đào tạo phù hợp về nhân quyền cho giáo viên, giảng viên (Điều 7); nên xây dựng các chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động và chương trình để thực thi giáo dục và đào tạo về nhân quyền (Điều 8); cơ quan nhân quyền quốc gia cần quan tâm đến hoạt động giáo dục và đào tạo (Điều 9); mở rộng hợp tác quốc tế để thúc đầy việc giáo dục nhân quyền (Điều 11, 12 và 13); bảo đảm sẵn sàng các nguồn lực cần thiết cho các hoạt động giáo dục nhân quyền (Điều 14)...
Tuyên ngôn cũng khẳng định, nhiều chủ thể khác trong xã hội như các tổ chức giáo dục, truyền thông, các gia đình, cộng đồng địa phương, các thiết chế xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, những người bảo vệ nhân quyền và khu vực tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và thực hiện các hoạt động giáo dục và đào tạo về nhân quyền.
3. Có các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nào?
Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (cơ chế nhân quyền/human rights mec/zarzzsm) thường được dùng để chỉ bộ máy các cơ quan chuyên trách và hệ thống các quy tắc, thủ tục có liên quan được thiết lập để thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người. Nhìn chung, trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, ngoài cơ chế quốc tế (mà nòng cốt là cơ chế của Liên họp quốc), còn có các cơ chế khu vực và quốc gia.
Dựa trên vị thế pháp lý và chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan bảo vệ quyền con người Liên Hợp Quốc được chia thành hai dạng: các cơ quan được thành lập theo (hoặc dựa trên) Hiến chương (charter‐based organs, hoặc charter bodies), và các cơ quan được thành lập theo (hoặc dựa trên) một số công ước quan trọng về quyền con người (treaty bodies). Một số tài liệu gọi hệ thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương (charter‐based mechanism) và cơ chế dựa trên công ước (treaty‐based mechanism).
Tại một số châu lục, một số tổ chức khu vực cũng ban hành văn kiện và thành lập các cơ chế để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong phạm vi khu vực đó. Ở góc độ nhất định, một số cơ chế khu vực (như ở châu Âu) còn có truyền thống và tính chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế của Liên hợp quốc. Nhìn chung, so với cơ chế của Liên hợp quốc các cơ chế hế quyền con nguôi khu vực có ưu điểm là dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện, do các quốc gia trong khu vực thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Thêm vào đó, các cơ chế khu vực, do phạm vi hẹp hơn về địa lý, tỏ ra dễ tiếp cận hơn với công chúng so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc. Mặc dù có 4 châu lục chính, song hiện tại chỉ ở châu Âu, châu Mỹ và châu Phi đã thiết lập được cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cho cả khu vực. Tại châu Á, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, gồm 10 quốc gia) đã thành lập ủy ban Liên chính phủ về quyền con người (AICHR) vào năm 2009.
Tại từng quốc gia, các cơ chế trong nước góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Hình thức của các cơ chế quốc gia bảo vệ nhân quyền rất đa dạng. Tuy nhiên, ở phạm vi quốc tế, Các nguyên tắc Paris (gọi tắt của "Các nguyên tắc liên quan đến địa vị của cơ quan nhân quyền quốc gia"), được ủy ban nhân quyền thông qua vào năm 1991 và được Đại hội đồng Liên Hợp quốc phê chuẩn vào năm 1993. Đã thiết lập nên những chuẩn mực chung về tính độc lập, phạm vi thẩm quyền... mà các cơ quan nhân quyền quốc gia nên tuân thủ.
4. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người khu vực ASEAN được thành lập như thế nào?
Năm 2007, “Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” (The ASEAN Charter) được thông qua, (Điều 14). Đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của Hiệp hội sau tròn 40 năm thành lập (từ năm 1967). Bên cạnh các nội dung khác, Hiến chương khẳng định "củng cố dân chủ, tăng cường quản trị tốt và pháp quyền, thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và tự do cơ bản" nằm trong những nhiệm vụ của tổ chức (khoản 7 Điều 1), đồng thời thành lập ra cơ quan bảo vệ quyền con người cấp khu vực (Điều 14).
Tháng 10 năm 2009, căn cứ vào Điều 14 của Hiến chương, Quy chế hoạt động (TOR) của ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR) đã được thông qua. Quy chế này quy định chi tiết mục đích, nguyên tắc hoạt động, chức năng và nhiệm vụ, cơ cấu, các phương thức hoạt động của ủy ban. Tuy nhiên, ủy ban được xác định là một "cơ quan tư vấn", chứ không có thẩm quyền nhận các khiếu nại của các cá nhân là nạn nhân của vi phạm nhân quyền. Ngày 23/10/2009, Thủ tướng Thái Lan đã chính thức công bố sự ra đời của ủy ban tại buổi lễ tổ chức tại Hua Hin, Thái Lan. Ủy ban đã nhóm họp phiên đầu tiên từ ngày 28/3 đến ngày 1/4/2010 tại Jakarta, Indonesia.
Cũng cần lưu ý là bên cạnh ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR), trong khu vực ASEAN còn có Ủy ban ASEAN về thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và Ủy ban ASEAN thực hiện Tuyên bố về thúc đẩy các quyền của người lao động di trú (ACMW).
5. Tuyển ngôn nhân quyên ASEAN (2012) có những nội dung cơ bản gì?
"Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN" được người đứng đầu các quốc gia/chính phủ trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thông qua vào ngày 18 tháng 11 năm 2012, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21, diễn ra tại Phnompenh. Cho dù tiến trình soạn thảo bản Tuyên ngôn này hầu như không có sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và có một số nội dung bị phê phán (đặc biệt là đoạn số 7, có hàm ý nhấn mạnh sự khác biệt của bối cảnh khu vực và quốc gia), Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN đánh dấu một bước tiẽn trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản trong khu vực Đông Nam Á.
Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN, gồm 40 đoạn, khởi đầu với 9 nguyên tắc cơ bản liên quan đến quyền con người. Kế đó, Tuyên ngôn thừa nhận mọi quyền đã nêu trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 (tại đoạn 10, đối với các quyền dân sự, chính trị, và đoạn 26, đối với cá quyền kinh tế, xã hội và văn hóa) và nhâh mạnh một số quyền cụ thể. Cạnh đó, Tuyên ngôn còn ghi nhận một số quyền mới (các quyền con người "thế hệ thứ ba") là quyền phát triển và quyền về hòa bình.
Mặc dù chỉ là Tuyên ngôn (không có giá trị ràng buộc về pháp lý), văn kiện này thể hiện cam kết cụ thể của tất cả các quốc gia trong khối ASEAN đối với việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Bản Tuyên ngôn có thể được sử dụng bởi Cơ quan Nhân quyền ASEAN, cũng như mọi cá nhân, tổ chức quốc gia và khu vực để giám sát việc thực thi hay giáo dục và vận động nhân quyền. Tuyên ngôn là tiền đề quan trọng cho việc hình thành một Công ước nhân quyền ASEAN (mang tính ràng buộc pháp lý) trong tương lai.
6. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cấp quốc gia là gì?
Các cơ chế quốc gia bảo vệ và thúc đẩy quyền con người rất đa dạng, về lý thuyết, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có chức năng bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, chính các cơ quan và công chức nhà nước cũng đồng thời là chủ thể chính vi phạm quyền con người, vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giói đã thiết lập các cơ quan độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước tăng cường hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người. Có hai dạng chính của các cơ quan quốc gia quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (national human rights íntitutions - NHRI) đã được thành lập ở nhiều nước trên thế giới, gồm:
(1) Ủy ban Quyền con người quốc gia (National Commissions of Human Rights), một cơ quan bao gồm nhiều thành viên đại diện cho nhiều nhóm xã hội và nghề nghiệp. Tên gọi của dạng thiết chế này có thể khác nhau giữa các nước, ví dụ như ủy ban/Trung tâm Quyền con người quốc gia, ủy ban quyền con người và bình đẳng….Thiết chế này có thể được quy định trong Hiến pháp (Philipines, Thái Lan...), bằng một đạo luật cụ thể (Malaysia...), bởi một nghị quyết của Nghị viện (Đan Mạch..), hoặc theo một quyết định của Tổng thống (Indonesia...). Nhìn chung, chức năng cơ bản của các ủy ban quyền con người quốc gia là bảo vệ các cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền chính trị và dân sự. Một số cơ quan được giao thúc đẩy cả các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa hoặc quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người bản địa... Có những ủy ban được giao thẩm quyền xử lý tất cả vi phạm các quyền được nêu lên trong Hiến pháp, trong khi một số khác chỉ có thẩm quyền xử lý những vi phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới, quan điểm chính trị... Hâu hết các ủy ban quyền con người quốc gia có thể tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại về các vi phạm quyền con người. Một số ủy ban có chức năng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và đề xuất các biện pháp thúc đẩy quyền con người.
(2) Thanh tra (Ombudsman), một cá nhân được giao thẩm quyền bảo vệ các quyền và tự do cơ bản. Thuật ngữ "Ombudsman" có nguồn gốc từ tiếng Thụy Điển (umbuds man - người đại diện) về sau được sử dụng trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với thanh tra Quốc hội hoặc thanh tra nhà nước. Ombudsman có một bộ máy giúp việc, thường gọi là Văn phòng Ombudsman. Hiện tại, nhiều quốc gia trên thế giói đã thành lập Ombudsman như là một cơ chế quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người (Đan Mạch, Thụy Điển, Áo, Cộng hòa Séc, Tây Ban Nha, Venezuela ...). Ombudmans nhận khiếu nại từ công chúng và tiến hành điều tra nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Thông thường, Ombudsman chỉ giải quyết những vụ việc nào mà đã được giải quyết bởi các cơ chế tư pháp hoặc hành pháp nhưng không hiệu quả.
Các nguyên tắc Paris (gọi tắt của "Các nguyên tắc liên quan đến địa vị của cơ quan nhân quyền quốc gia") (1991), đã thiết lập nên những chuẩn mực chung về tính độc lập, phạm vi thẩm quyền... mà các cơ quan nhân quyền quốc gia, dù có hình thức như thế nào, cũng nên tuân thủ.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập