Mục lục bài viết
Căn cứ pháp lý:
Luật Công ty Đài Loan Trung Quốc 2009;
Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995
Luật Công ty Ấn Độ năm 2013;
Luật Công ty Nhật Bản năm 2005;
Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009.
1. Về khái niệm cổ đông sáng lập
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang và có nền kinh tế lớn nhất thế giới, cấu thành bởi trên 50 tiểu bang trải dài từ Tây sang Đông, với 2 hệ thống hiến pháp và pháp luật cùng tồn tại song hành nên quy định của pháp luật tại các tiểu bang của Hoa Kỳ về hình sự, dân sự, đầu tư, doanh nghiệp có thể không đồng nhất. Dù đã có một đạo luật thống nhất về thương mại ban hành năm 1990 (UCC 1990) song Hoa Kỳ không có một đạo luật công ty thống nhất cho cả liên bang. Pháp luật tại các tiểu bang của Hoa Kỳ cũng có những cách tiếp cận khác nhau ở các quy định về CTCP nói chung và khái niệm về CĐSL nói riêng. Cụ thể: Luật Công ty của Tiểu bang Texas hoàn toàn không nêu khái niệm CĐSL mà chỉ có khái niệm cổ đông. Theo đó, cổ đông là người mà tên của họ được ghi trên cổ phần phát hành của công ty, được đăng ký trong hồ sơ chuyển nhượng cổ phần và được lưu trữ bởi công ty[2]. Theo quy định của pháp luật tiểu bang California, CĐSL được hiểu đơn giản là những người có ký tên vào bản điều lệ của CTCP[3].
Ở Đan Mạch, Luật Công ty cổ phần năm 2000 không nêu định nghĩa về khái niệm CĐSL, mà quy định một CTCP được thành lập bởi một hoặc nhiều CĐSL; các CĐSL phải ký vào bản điều lệ của CTCP[4]. Pháp luật New Zealand không quy định trực tiếp về CĐSL, mà chỉ xác định cổ đông là người mà tên của họ được ghi trên ít nhất một cổ phần đăng ký của công ty. Trước khi ghi tên vào cổ phần đăng ký của công ty thì tên của nhà đầu tư đó được ghi trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp[5]. Tại Canada, CĐSL là người ký tên vào điều lệ của CTCP[6]. Trong khi đó, ở Cộng hòa liên bang Đức, những cổ đông tham gia xây dựng điều lệ CTCP đều được gọi là CĐSL[7]. Pháp luật Ấn Độ quy định CĐSL là người hội đủ 3 tiêu chí sau: 1) Là người có tên trong bản cáo bạch hoặc báo cáo thường niên của công ty; 2) Là người kiểm soát hoạt động của công ty một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với tư cách là cổ đông, giám đốc công ty hoặc chức danh khác; 3) Là người có thể đưa ra định hướng và chỉ đạo cho hoạt động của Hội đồng quản trị. Pháp luật Cambodia cũng có quy định tương đồng như tại tiểu bang California (Hoa Kỳ) khi định nghĩa CĐSL là cá nhân ký tên vào bảng điều lệ của CTCP[8]. Luật Công ty của Liên bang Nga không định nghĩa trực tiếp CĐSL mà chỉ quy định: CĐSL là những công dân hoặc thực thể pháp lý đã thông qua quyết định thành lập CTCP[9].
2. Về số lượng cổ đông sáng lập
Theo quy định của pháp luật Thái Lan, để thành lập một CTCP thì cần ít nhất 15 cổ đông là thể nhân, có điều lệ công ty và tuân thủ các quy định khác tại Luật CTCP[10]. Pháp luật Australia quy định, các công ty nói chung và CTCP nói riêng khi thành lập thì chỉ cần ít nhất 1 nhà đầu tư[11]. Tại Đài Loan, để thành lập CTCP thì cần 1 hoặc từ 2 CĐSL[12]. Luật Công ty Thụy Điển năm 2005 quy định, các công ty TNHH lẫn CTCP phải có ít nhất 1 CĐSL hoặc nhiều hơn tại thời điểm thành lập, nhưng CĐSL phải là 1 thể nhân hoặc 1 pháp nhân có nơi cư trú hoặc có trụ sở tại khu vực kinh tế Âu Châu hoặc tại Thụy Điển; nếu là một cá nhân người Thụy Điển thì phải có năng lực pháp lý[13]. Pháp luật Cộng hoa liên bang Đức và Cộng hòa liên bang Nga cho phép một CTCP có thể được thành lập bởi 1 hoặc nhiều cổ đông. Việc thành lập CTCP tại Nga đòi hỏi phải thông qua một Hội nghị thành lập bao gồm nhiều CĐSL (nếu chỉ có 1 CĐSL thì cổ đông này tự ra quyết định thành lập). Tại Hội nghị thành lập này, các CĐSL sẽ biểu quyết theo tỷ lệ ¾ để bầu ra các cơ quan quản trị của CTCP[14]. Tại Nhật Bản, khi thành lập CTCP thì các cổ đông sáng lập phải có trách nhiệm chuẩn bị điều lệ công ty và ký tên, ghi rõ họ tên (kể cả đóng dấu nếu có) vào bản điều lệ của công ty[15].
3. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của cổ đông sáng lập khi thành lập công ty
Tại Thái Lan, CTCP thành lập phải có ít nhất 15 CĐSL và các CĐSL phải mua được ít nhất 5% số vốn đăng ký của CTCP tại thời điểm thành lập[16]. Luật Công ty năm 2005 của Thụy Điển yêu cầu tất cả các CĐSL phải góp đủ cổ phần tại thời điểm thành lập công ty[17]. Tại Italia, các nhà đầu tư sáng lập CTCP phải thanh toán đủ tiền mua cổ phần với tỷ lệ ít nhất 25% trước khi thành lập công ty[18]. Theo quy định của pháp luật Đài Loan, CĐSL không bị bắt buộc mua một tỷ lệ cổ phần tối thiểu tại thời điểm thành lập CTCP, Luật Công ty Đài Loan chỉ yêu cầu CĐSL sau khi thanh toán đủ tiền mua cổ phần lần đầu phát hành của công ty tại thời điểm thành lập là được[19]. Tại Nga, tối thiểu 50% cổ phần phát hành rộng rãi ra bên ngoài tại thời điểm thành lập CTCP phải được thanh toán đủ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đăng ký thành lập. Đối với cổ phần của CĐSL sẽ không có quyền biểu quyết nếu CĐSL không thánh thoán đủ tiền mua cổ phần, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác[20]. Tại Trung Quốc, trước ngày 01/03/2014, theo quy định tại Luật Công ty năm 2005, các công ty khi đăng ký thành lập phải đăng ký tối thiểu 30.000 tệ và số vốn góp ban đầu của các CĐSL phải tối thiểu 20% vốn đăng ký, đồng thời số vốn góp ban đầu của cổ đông phải được thanh toán đủ tại thời điểm thành lập công ty, còn số vốn góp còn lại thì thanh toán trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày thành lập công ty. Ngoài ra, số vốn góp bằng tiền mặt của cổ đông phải tối thiểu bằng 30% số vốn góp đăng ký của công ty. Tuy nhiên, ngày 28/12/2013, Trung Quốc đã sửa đổi Luật Công ty năm 2005 thì từ ngày 01/03/2014 tất cả những quy định về vốn pháp định và số vốn góp tối thiểu của nhà đầu tư khi thành lập công ty tại Trung Quốc đều bị bãi bỏ[21]. Tại Đức, cổ đông phải thanh toán tiền mặt cho công ty tối thiểu là 25% giá cổ phần phát hành và phải góp đủ tại thời điểm thành lập. Nếu góp vốn mà cổ đông phải chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty thì nghĩa vụ này phải hoàn thành trong vòng 5 năm từ thời điểm đăng ký[22].
Tại Việt Nam, trước thời điểm năm 2000, theo quy định tại Điều 32 Luật Công ty năm 1990 thì các sáng lập viên phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu dự tính phát hành của công ty. Và nếu các sáng lập viên không đăng ký mua tất cả cổ phiếu công ty, thì họ phải công khai gọi vốn từ những người khác.
Hiện tại, theo quy định tại khoản 2 Điều 120 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì các CĐSL phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp. Đồng thời, Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng xác định trách nhiệm của các cổ đông nói chung và CĐSL nói riêng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Và nếu sau thời hạn 90 ngày nêu trên mà có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua thì xử lý theo một trong các hướng sau: 1) Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ không còn là cổ đông của công ty và họ cũng không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; 2) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán. Họ không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác. Trong trường hợp này, CTCP phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi CĐSL trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp năm 2020, một số luật chuyên ngành tại Việt Nam có quy định đặc thù về tỷ lệ sở hữu cổ phần của CĐSL khác biệt với Luật Doanh nghiệp năm 2020. Chẳng hạn, theo quy định tại khoản 5 Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập tổ chức tín dụng, các CĐSL phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, các CĐSL là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ.
4. Các hạn chế đối với cổ đông sáng lập
Tại Việt Nam, trong giai đoạn từ năm 1990 – 1999, theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật Công ty năm 1990 thì cổ phiếu trong CTCP được phát hành có thể là cổ phiếu có ghi tên hoặc cổ phiếu không có ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng, còn cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng, nếu được sự đồng ý của HĐQT. Hiểu theo nghĩa trên tại Luật Công ty năm 1990 thì các CĐSL trong CTCP tại Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 1999 bị một hạn chế khá lớn trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Họ buộc phải sở hữu loại cổ phần có phần đặc biệt so với các cổ đông khác, đó là cổ phần có ghi tên và loại cổ phần này không thể chuyển nhượng tự do mà việc chuyển nhượng phải dựa trên ý chí của Hội đồng quản trị (khi đó phải được ít nhất ¾ tổng số thành viên Hội đồng quản trị chấp thuận). Từ năm 2000 – 30/06/2015, thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005, việc bắt buộc phải ghi tên CĐSL trên loại cổ phần mà họ sở hữu đã bị loại bỏ, thay vào đó, CĐSL tại Việt Nam chỉ bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần đối với người nhận chuyển nhượng không phải là cổ đông (theo Luật Doanh nghiệp năm 1999) và không phải là cổ đông sáng lập (theo Luật Doanh nghiệp năm 2005) trong thời hạn 3 năm đầu thành lập CTCP với điều kiện phải được Đại hội đồng cổ đông – cơ quan quyền lực cao nhất trong CTCP chấp thuận.
Từ ngày 01/07/2015, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 120 Luật Doanh nghiệp năm 2020, các CĐSL trong CTCP tại Việt Nam phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp. Và trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, CĐSL có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho CĐSL khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là CĐSL nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của CĐSL được bãi bỏ sau thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các hạn chế của quy định này không áp dụng đối với cổ phần mà CĐSL có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và cổ phần mà CĐSL chuyển nhượng cho người khác không phải là CĐSL của công ty.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp năm 2020, khoản 4 Điều 56 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng có quy định đặc thù riêng về hạn chế đối với CĐSL trong các ngân hàng thương mại cổ phần (bản chất pháp lý vẫn là CTCP hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2020) đó là: Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, CĐSL chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần cho các CĐSL khác với điều kiện bảo đảm các tỷ lệ sở hữu cổ phần quy định tại Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Từ các quy định trên, có thể rút ra một nhận xét chung là pháp luật doanh nghiệp Việt Nam chỉ áp dụng sự hạn chế cơ bản đối với CĐSL khi buộc họ phải nắm giữ một tỷ lệ tối thiểu cổ phần tại thời điểm thành lập công ty và quyền chuyển nhượng cổ phần của họ bị giới hạn khó hơn so với các cổ đông phổ thông khác trong CTCP, không quy định tiêu chí họ phải cư trú (hoặc thường trú) tại Việt Nam.
Ở đây, nếu so sánh với quy định tại pháp luật doanh nghiệp một số nước, chúng ta thấy có những điểm tương đồng và khác biệt. Khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009 quy định ít nhất ½ số lượng CĐSL phải thường trú tại Thái Lan và phải góp vốn mua cổ phần, thanh toán tiền mua cổ phần ít nhất là 5% số vốn đăng ký của công ty. Tại Thái Lan, các cổ phần mà CĐSL góp vốn mua tại thời điểm thành lập công ty (ít nhất 5%) sẽ bị hạn chế chuyển nhượng trong thời hạn 2 năm đầu kể từ ngày thành lập công ty, trừ trường hợp phải được sự chấp thuận của ĐHCĐ[23]. Quy định của Đan Mạch yêu cầu ít nhất 1 CĐSL phải cư trú tại Đan Mạch[24].
Danh mục tài liệu tham khảo:
[2] Xem: Mục 69, section 2 Luật Công ty Ấn Độ năm 2013;
[3] Xem: Mục 1 Phần 1 Luật Công ty thương mại California 2005, sửa đổi, bổ sung 2011;
[4] Xem: Mục 3 Phần I Luật Công ty cổ phần Đan Mạch 2000;
[5] Xem: Điều 96, Phần VII Luật Công ty Newzealand 1993;
[6] Xem: Mục 2 Phần 1 Luật Công ty Thương mại Canada 2015;
[7] Xem: Điều 28 Luật Công ty cổ phần CHLB Đức 1965, được sửa đổi, bổ sung ngày 09/09/2010;
[8] Xem : Khoản 6 Điều 88 Luật Doanh nghiệp thương mại Cambodia 2006;
[9] Xem: Điều 10 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995;
[10] Xem: Section 16 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
[11] Xem: Section 114 Phần II Luật Công ty Australia 2001;
[12] Xem: Điều 128 Luật Công ty Đài Loan Trung Quốc 2009; http://www.bycpa.com/html/news/20132/1793.html.
[13] Xem: Section 1, Chương 2 Luật Công ty Thụy Điển 2005;
[14] Xem: Điều 9 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995;
[15] Xem: Điều 26 Luật Cộng ty Nhật Bản năm 2005;
[16] Xem: Điều 16 và Điều 17 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
[17] Nguồn: http://www.lindahl.se/media/480245/doing_business_in_sweden.pdf.
[18] Xem: “A review of UK and Italian and UK Company Law” A joint study by Consiglio Nazionale dei Dotteri Commercialisti a degli Esperti Contabili and The Association of Chartered Certified Accountants Published by the Certified Accountants Educational Trust, London July, 2009, tr. 22.
[19] Xem: Điều 131 Luật Công ty Đài Loan Trung Quốc 2009;
[20] Xem: Điều 34 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995;
[21] Xem: Luật Công ty sửa đổi của Trung Quốc ban hành ngày 28/12/2013, có hiệu lực thực thi từ ngày 01/03/2014;
[22] Xem: Điều 36a Luật Công ty cổ phần CHLB Đức 1965, được sửa đổi, bổ sung năm 2010;
[23] Xem: Section 57 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
[24] Xem: Mục 3 Phần 2 Luật Công ty cổ phần Đan Mạch 2000;