1. Lừa đảo bằng cách tặng tiền và đồ trang sức?

Tôi hỏi một câu hỏi cần luật sư giải đáp, tôi có quen một người bạn ở nước ngoài, người này quen với tôi khoảng một tháng, họ nói sau này về Việt Nam họ sẽ kết hôn với tôi, họ nói họ thương tôi. Họ nói họ sẽ tặng và gửi cho tôi tiền và đồ trang sức gửi vào trong bưu phẩm, bưu kiện qua đường chuyển phát nhanh cho tôi và ngày hôm nay có một người gọi điện thoại cho tôi họ nói là nhân viên của sân bay và yêu cầu tôi nộp tiền thuế thì mới nhận được hàng và hàng là tiền mặt và vàng miếng.
Họ bảo tôi đóng chừng 70 triệu tiền Việt Nam. Tôi rất lo lắng, có phải tôi nộp tiền thuế cho họ là tôi sẽ nhận được hàng không? liệu tôi có bị lừa không?
Cảm ơn!

Những bưu gửi không được chấp nhận. Cấm gửi là gì ?

Theo Điều 25 Chương 1 Phần 2 Công ước bưu chính thế giới thì:
Các bưu gửi không được chấp nhận, cấm gửi: Cấm không được đưa các loại tiền kim loại, tiền giấy, chứng khoán, các loại séc du lịch bạch kim, vàng hoặc bạc đã được gia công hoặc chưa, các loại đá quý, đồ trang sức hoặc các vật phẩm có giá trị khác vào: Trong bưu phẩm không khai giá, tuy nhiên, nếu luật pháp nước gửi và nước nhận cho phép thì những vật phẩm trên vẫn có thể được gửi trong phong bì dán kín như một Bưu gửi ghi số; Trong bưu kiện không khai giá được trao đổi giữa hai nước chấp nhận mở dịch vụ bưu kiện khai giá; ngoài ra, bưu chính các nước có quyền cấm gửi vàng nén trong các bưu phẩm khai giá hoặc không khai giá đi hoặc đến lãnh thổ nước mình hoặc quá giang gửi rời qua nước đó. Các nước có quyền giới hạn giá trị thực tế đối với các loại vật phẩm này.
Đồng thời, theo Điều 12 Luật Bưu chính 2010 thì vật phẩm, hàng hoá không được gửi, chấp nhận, vận chuyển qua mạng bưu chính: Vật phẩm, hàng hóa mà pháp luật của Việt Nam quy định cấm lưu thông. Vật phẩm, hàng hoá từ Việt Nam gửi đi các nước mà pháp luật Việt Nam quy định cấm xuất khẩu hoặc pháp luật của nước nhận quy định cấm nhập khẩu. Vật phẩm, hàng hoá từ các nước gửi về Việt Nam mà pháp luật Việt Nam quy định cấm nhập khẩu. Vật phẩm, hàng hoá bị cấm vận chuyển bằng đường bưu chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
=> Theo đó, các mặt hàng tiền, vàng là mặt hàng cấm không được phép.
Người bạn của bạn đã vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, do đó, để bảo vệ quyền lợi của mình, đối với trường hợp này bạn nên làm hồ sơ trình báo công an cấp quận/huyện nơi bạn đang cư trú để được giải quyết kịp thời.

2. Rút tiền hộ có bị phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Thưa luật sư Em mong muốn luật sư sẽ tư vấn cho em trường hợp sau đây : Đầu tháng 12/2015, em nhận đk cuộc gọi của ngươi em họ trong gia đình với nội dung như sau (em đặt tên người em của em là T) : T mượn người tên D (D là người cho T mượn tiền) 1 khoản tiền là 3.000.000 đ nhưng đã thanh toán 1.500.000 đ và còn nợ lại 1.500.000đ .
D buộc T trong vong trong vòng hôm nay hoặc ngày hôm sau là phải thanh toán đủ số tiền 1.500.000đ còn lại cho D. Vì T biết em có quen biết với D trước đây nên nhờ em nói hộ lý do là ko đủ tiền để thanh toán đúng như lịch mà D yêu cầu nên sẽ trả từ từ có được ko?. Luc đầu em không đồng ý vì không muốn dính líu tiền bạc với T nhưng do T năn nỉ quá và cũng là chị em trong gia đình nên em chấp nhận. Em liên hệ với D và đưa ra phương án sau : Trước đây D cũng từng nợ em 1.000.000đ và vẫn chưa trả,bây giờ em sẽ cấn trừ tiền đó qua cho T và T chỉ cần trả D 500.000 đ là đủ. Cuối cùng thì D và T đều đồng ý phương án đó. T hứa sẽ thanh toán cho em vào mùng 6 Tết âm lịch (13/02/2016) nhưng đến ngày này thì T không liên lạc với em. Em có liên lạc rất nhiều lần nhưng không được .
Đến khoảng 16 giờ ngày 26/02/2016 T nhắn tin nói với em người yêu của T sẽ chuyển khoản cho T 11.000.000đ trong đó T sẽ trả em 1.000.000đ như số tiền T đã mượn. Sau đó T hỏi xin tài khoản của em để người yêu T chuyển khoản, đồng thời T lấy lý do T bị mất chứng minh thư và thẻ ngân hàng đang bị hư nên mượn em số tài khoản để người yêu T có thể chuyển luôn số tiền 10.000.000 cho T. Em có hỏi lý do gì mà người yêu T chuyển nhiều tiền như vậy thì T chỉ nói người yêu gửi tiền cho T để T đưa tiền hàng hóa giùm . Sau khi nghe em kể việc T vay tiền nhưng day dưa không dứt khoát thanh toán cho em nên Q đồng ý và cung cấp số tài khoản tên ngân hàng chi nhánh ngân hàng cho em và em chuyển thông tin đó cho T. Sau đó, em nói với Q khi tan giờ làm về em sẽ qua bên nhà Q chở Q ra cây ATM Agribank rút tiền. Khoảng 17h20 T điện thoại nói em rằng người yêu T đã chuyển tiền và nhờ em báo lại với Q kiểm tra tài khoản. Khoảng 17h40 thì em chở Q ra ngân hàng Agribank gần nhà Q rút tiền. Q là người trực tiếp rút và đưa cho em 10.000.000đ. Khoảng 18 giờ em đến khu nhà Bác em để đưa tiền cho T nhưng chỉ đến gần nhà chứ không đến trước cửa nhà Bác. Không như thỏa thuận ban đầu T chỉ trả em trước 500.000 và nói cuối tuần sẽ thanh toán 500.000 còn lại. Đến cuối tuần em liên hệ với T để hỏi về số tiền đó thì cũng như lần trước,T hỏi mượn tài khoản ngân hàng Agirbank của Q một lần nữa và chuyển khoản tiếp 5.000.000đ vô tài khoản của Q. Lần này T trực tiếp xin số điện thoại của Q để liên lạc và lấy tiền và T đồng ý trả em 500.000đ còn lại. Sau khi rút tiền Q chỉ cần đưa T 4.500.000đ. Đến ngày 01/03/2016, Q gặp em và đưa em số tiền 500.000đ mà T hứa trả nợ cho em. Sau khi T đã trả hết tiền nợ em (1.000.000) em và Q không cho T mượn thêm tài khoản để chuyển khoản lần nào nữa. Đến ngày 12/04/2016, công an điều tra tội phạm kinh tế công nghệ cao ngoài Hà Nội gọi cho Q và thông báo rằng T đã lừa đảo khách hàng ngoài Hà Nội để chuyển khoản vô tài khoản của Q. Đồng thời cũng nghi ngờ em cùng T trong chuyện lừa đảo này. Công an hẹn em và T sáng 13/04/2016 lên để tường trình sự việc. Ngày 13/04/2016, em và Q lên công an quận 10 trình bày tất cả sự việc, nhưng sau khi lấy được tiền T nợ và đưa lại tiền cho T em đã xóa hết tất cả tin nhắn liên quan đến T Lý do em xóa là do :
1. Em có thay đổi điện thoại ?
2. Em cảm thấy rất phiền phức khi liên quan đến chuyện tiền bạc với T ?
Đến sáng 13/04/2016 chú em báo rằng T bị công an áp giải ra Hà Nội và được trả điện thoại nhằm liên hệ với những người T lừa gạt để làm việc. Nhưng đến 2 giờ sáng ngày 14/04/2016, em nhận được tin nhắn từ T. Trong tin nhắn T có xin lỗi em và Q nhưng lại nói sau khi về sẽ liên lạc với em. Em sợ em sẽ bị nghi ngờ rằng có thông đồng với T để lừa đảo riêng về em tuy em đã xóa hết tin nhắn với T nhưng em vẫn có thể chứng minh được T mượn em 1.000.000 đ là sự thật. Em rất hoang mang và lo lắng tuy T đã khai nhận là do T thực hiện 1 mình nhưng em không còn lưu giữ tin nhắn những cuộc nói chuyện với T nên em thật sự không yên tâm. Em mong rằng luật sự có thể giúp em giải đáp những gì em đang lo lắng về việc này.
Em xin chân thành cám ơn!

Trả lời:

Về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hiện nay theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 ghi nhận:

“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành tội phạm, trường hợp của bạn chỉ thực hiện việc rút hộ tiền thông qua tài khoản của mình mà không biết rõ nguồn gốc số tiền này là do hành vi lừa đảo, hành vi của bạn cũng không phải là hành vi gian dối để chiếm đoạt tài đoạt tài sản, do đó bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Về vấn đề đồng phạm. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định tại điều 17 của bộ luật hình sự 2015

Xem xét các dấu hiệu có thể thấy hành vi của bạn không thuộc trường hợp cố ý cùng thực hiện tội phạm với T nên không thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do đó bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm của tội này. Vậy bạn có thể yên tâm hợp tác với cơ quan điều tra cũng như cung cấp các thông tin để chứng minh cho việc bạn làm không phải là hành vi vi phạm pháp luật.

3. Giả mạo chữ ký lấy tiền có vi phạm hay không?

Kính chào Luật Minh Khuê, em có một vấn đề mong các luật sư giải đáp: Em gái em làm thủ quỹ cho một Doanh nghiệp tư nhân. Trong quá trình làm em ấy do thiếu hiểu biết có giả mạo chữ ký của chủ doanh nghiệp để lấy tiền nhưng là số tiền rất nhỏ, vài chục đến một hai trăm. Em hỏi tại sao thì em ấy bảo sợ công ty không trả lương, thấy nhiều người lại đòi lương quá, với lại em làm hơn tháng rưỡi rồi mà bà chủ vẫn không chịu trả lương có ý định giam lương không muốn chi lương.
Vì kẹt tiền nên em ấy thỉnh thoảng có lấy tiền rồi ký nhái chữ ký bà chủ ở sổ tiền mặt thu chi. Chỉ có khoảng 3,4 ngày như thế thôi. Rồi vì cảm thấy không thể làm ở đó nữa, em đã tự ý lấy lương (chỉ lấy đủ ngày công em làm) rồi báo nghỉ. Bà chủ doanh nghiệp nay đòi kiện em của em ra tòa vì tội lừa đảo và chiếm đoạt tài sản.
Cho em hỏi em gái của em có vi phạm pháp luật không ? Nếu có thì phạm như thế nào và xin chỉ giúp em cách để em ấy vượt qua? Còn thêm điều này nữa là công ty em làm xài phần mềm kế toán Hasoft. Máy của em và máy của kế toán bán hàng ai cũng có thể tự ý vào được để sửa đổi số liệu. Nếu bị vu oan là lấy số tiền lớn phi thực tế thì có cách nào bào chữa không ?
Em xin chân thành cảm ơn!
Người gửi: L.H

Trả lời:

Hành vi của em bạn là vi phạm pháp luật. Vì đã cố tình chiếm đoạt tài sản của người khác mà chưa được sự cho phép, đồng ý của người đó. Dù bà chủ không trả lương hay đáng ra đấy là số tiền em bạn được hưởng nhưng em bạn có thể lựa chọn theo hình thức khác nhau như hỏi bà chủ về vấn đề lương hay yêu cầu bà chủ trả tiền lương chứ không nên tự ý lấy tiền của người khác như vậy.

Do bạn không nói số tiền em bạn tự ý lấy là bao nhiêu nhưng hành vi em bạn tự ý lấy tiền này xem là hành vi lén lút, bí mật. Che dấu hành vi lấy tiền của mình với bà chủ. Nếu em bạn lấy số tiền đó từ hai triệu trở lên đến dưới năm mươi triệu thì em bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo điều 173 BLHS 2015 vì các hành vi phạm tội thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội này. Còn nếu dưới 2 triệu thì có thể em bạn chỉ bị xử phạt hành chính.

Còn về hành vi giả mạo chữ ký của em bạn thì em bạn có được tài sản của bà chủ thông qua hợp đồng lao động, được bà chủ giao cho tài sản để quản lý. Việc em bạn giả mạo chữ ký của bà chủ rồi tự lấy tiền được xem là hành vi gian dối và được giao tài sản rồi mới nảy sinh ra ý định chiếm đoạt. Do đó hành vi của em bạn thỏa mãn dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điếu 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tuy nhiên nếu số tiền chiếm đoạt từ 4 triệu đồng chở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn dưới 4 triệu thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bạn có thể nói em bạn gặp bà chủ để thương lượng và trả lại tài sản cho người ta nếu người ta đồng ý nhận và không kiện nữa em bạn sẽ không sao. Tuy nhiên nếu bà chủ không đồng ý nhận tiền mà vẫn đòi kiện thì em bạn có thể chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính chứ chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về vấn đề phần mềm máy tính mà ai cũng có thể ra vào đê sửa đổi thông tin được thì đây là do lỗi của bà chủ, bên cạnh đấy nếu em bạn bị đổ oan thì bạn cứ trình bày những gì mà bạn biết, sau đó cơ quan công an sẽ dựa vào các bằng chứng cũng như nghiệp vụ của mình để minh oan cho em bạn.

4. Có phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không ?

Xin chào luật sư, em có vấn đề thắc mắc cần luật sư tư vấn giúp. Cụ thể: Ngày 19/10/2015 anh bạn làm cùng công ty có hỏi mượn một chiếc xe máy hiệu WAVE RSX với lý do mượn để cầm cố lấy tiền giải quyết việc riêng và hẹn em đến khoảng nửa tháng là bàn giao trả lại xe cho em. Số tiền anh ta cầm cố là 7.500.000 cộng với số tiền mặt anh ta lấy của em là 2.500.000 ( cầm xe và lấy tiền mặt đều có người làm chứng).
Và khi đã đến hạn lấy xe , em đã yêu cầu anh ta phải bàn giao lại xe như đã thỏa thuận nhưng anh đã nhiều lần sai hẹn và cho đến thời điểm hiện tại em đã nhiều lần gọi điện và nhắn tin nhưng anh ta không nghe máy và trả lời.
Vậy trong trường hợp nêu trên thì anh ta có đủ điều kiện quy tội danh lừa đảo và chiếm đoạt tài sản của người khác theo điều 174 BLHS năm 2015( sửa đổi bổ sung năm 2017) hay không ?
Em mong luật sư tư vấn giúp em. Em xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Trong trường hợp này bạn có thể làm đơn tố cáo gửi ra cơ quan cảnh sát điều tra công an quận huyện nơi người bạn của bạn cư trú để yêu cầu giải quyết. Tổng giá trị tài sản của bạn cho người bạn vay là 10 triệu đồng nên nếu không trả, bạn của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của người đó có thể bị khởi tố hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu ngay từ ban đầu người đó đã có mục đích chiếm đoạt xe và số tiền 2.500.000 đồng của bạn nhưng nói dối là sẽ trả. Hoặc có thể bị khởi tố hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu ban đầu thật sự mượn xe và tiền, có ý định sẽ mang trả nhưng vì hoàn cảnh khó khăn không thể hoàn trả cho bạn được.

Vấn đề xác định tội danh cụ thể còn phụ thuộc vào kết quả của cơ quan điều tra.

Bạn có thể tham khảo ở các quy định của điều 174 và 175 Bộ luật hình sự năm 2015,sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

- Nếu ngay từ đầu, người phạm tội cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm làm cho người khác tin đó là sự thật nhằm chiếm đoạt tài sản thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp này, giá trị của tài sản bị chiếm đoạt chỉ cần từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Nếu việc giao và nhận hoàn toàn ngay thẳng dựa trên hợp đồng (vay, mượn, thuê..) và sự tín nhiệm, sau khi có được tài sản mới xuất hiện hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc đánh tráo, hoặc gian dối là bị mất, không trả lại tài sản do không có khả năng hoàn trả vì đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp như đánh bạc, cầm đồ…thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trường hợp này thì giá trị của tài sản bị chiếm đoạt phải từ 4 triệu đồng trở lên hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

5. Hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định ở đâu và hình phạt như thế nào?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015,(sửa đổi bổ sung năm 2017). Theo đó Điều luật có quy định:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

Vậy, tùy vào từng trường hợp cu thể trên thực tế mà người phạm tội có thể chịu các hình phạt khác nhau.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê