1. Mở đầu vấn đề
Thế kỷ XX là thế kỷ của sự chuyển đối chính sách pháp luật từ định hướng nghiên cứu về khoa học chính sách pháp luật đến việc phân tích chính sách pháp luật với tư cách là thực tiễn xã hội đặc thù.
Trong giai đoạn này, các nhà khoa học tập trung sự quan tâm đến việc phân tích chính sách pháp luật với tư cách là thực tiễn xã hội đặc thù. Chẳng hạn, G. Kel'zen thừa nhận rằng, "việc phân tích chính sách pháp lý" là hữu ích cho việc xác định rằng, "pháp luật cần phải như thế nào hoặc cần phải xây dựng như thế nào” (theo Trích theo: Zd.L. Berzdel': Lý luận chung về pháp luật, Mátxcơva, 2000, tr.203 (bản tiếng Nga)).
2. Quan điểm chính sách pháp luật của một số học giả
- Nhà luật học nổi tiếng người Anh Dajsi - người có nhiều công trình nghiên cứu mang tính học thuyết được các tòa án nước Anh sử dụng khi xem xét và giải quyết các vụ án, nói rằng, "các tòa án nước Anh không được thừa nhận hiệu lực của pháp luật được dựa trên cơ sở pháp luật nước khác, nếu như việc thừa nhận đó không phù hợp với chính sách pháp luật của nước Anh, hoặc vói các quy tắc đạo đức được pháp luật nước Anh ủng hộ, hoặc với việc duy trì, bảo vệ các tô’ chức chính trị và xét xử của nước Anh". Nhà luật học nổi tiếng khác người Anh Cheshir lưu ý rằng, "khó xác định được khối lượng của đạo luật nước ngoài không được áp dụng ở nước Anh. Chỉ có thể mạnh dạn khẳng định rằng, đạo luật nước ngoài sẽ không được áp dụng ở nước Anh, nếu như đạo luật đó là đạo luật hình sự hoặc là đạo luật thuế, nếu như nó mâu thuẫn với chính sách nào đó của pháp luật nước Anh” (theo theo: A.s. Avtomonov: Các cơ sở pháp luật tư trong hiên pháp, Các công trình nghiên cứu của Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga, Mátxcơva, số 6/2008, tr.129 (bản tiếng Nga)).
- Giáo sư người Áo T. Majer - Maly trong công trình chuyên khảo của mình: "Tư tưởng pháp luật - khoa học pháp luật - chính sách pháp luật" định nghĩa chính sách pháp luật với tư cách là chính sách định hướng đến việc thay đổi hoặc duy trì hệ thống pháp luật hiện hành. Ông lưu ý rằng, kết quả của chính sách pháp luật không chỉ là định hướng nhất định cho các văn bản quy phạm pháp luật mà còn cả hệ tư tưởng nhất định. Hiện nay, từ "hệ tư tưởng" trong không ít trường họp có màu sắc tiêu cực và trong xã hội đang diễn ra xu hướng chung về việc phi hệ tư tưởng hóa hệ thống các hiểu biết về xã hội. Hơn nữa, việc phân tích so sánh và phân tích lịch sử các hệ thống pháp luật trên thế giới chỉ ra rằng, mọi hệ thống pháp luật không phải cái gì khác là sự cụ thể hóa hệ thống các giá trị của xã hội đó trong lĩnh vực pháp luật và trong sự mong muốn có thể coi hệ thống giá trị đó với tư cách là hệ tư tưởng. Pháp luật không thể xuất hiện trên cơ sở trung lập về giá trị (theo theo: A.v. Mal'ko, V.A. Zatonskij: Chính sách pháp luật: Những cơ sở lý luận và thực tiễn: tể hợp phương pháp giảng dạy, Sđd, tr.112 (bản tiếng Nga)).
Ví dụ, cũng chính ở nước Áo sự khởi đầu của việc nghiên cứu chính sách pháp luật có tính hướng đích gắn liền vói tên tuổi của nhà luật học và nhà hoạt động chính trị Kh. Brody (theo Chủ biên Ju.s. Pivovarov: Pháp luật của thếkỷ XX: các tư tưởng và các giá trị, Tuyển tập các tổng quan và các lược thuật, Mátxcơva, 2001, tr.98 (bản tiếng Nga)).
- Chính sách pháp luật, theo quan điểm của V. Kubesh, là xây dựng các quy phạm pháp luật mới, "tìm kiếm" những quy phạm đúng đắn trong các quy phạm đang tồn tại. Trật tự pháp luật đang tồn tại, trật tự nhà nước và quốc tế là yếu tố quan trọng mà từ đó chính sách pháp luật được bắt đầu ((theo V. Kubesh: Grundfragen der Philosophic des Rechts, Wien, New York, Springer, 1977).
- V. Zippelius cho rằng, chính sách pháp luật không phải là một hiện tượng pháp luật thuần túy. Đằng sau kỹ thuật xã hội mà ở đó pháp luật thực hiện vai trò to lớn, về bản chất, có sự thể hiện của Nhà nước. Chính vì điều này, chính sách của Nhà nước dựa vào tính giáo điều của pháp luật, nhung nó không chủ tâm trở thành đường ray của sự kế hoạch hóa và dự báo nghiêm ngặt. (theo V. Zippelius: Gesellschaft und Recht: Grundbegriffe der Rechts - und Staatssoziologic, Munchen: Beck, 1980).
Chính sách pháp luật cũng được hiểu là các phương tiện pháp luật và các cơ sở pháp luật cụ thể mà với sự trợ giúp của chúng để đạt được các mục tiêu xã hội này hay các mục tiêu xã hội khác (theo Genauer: die Kimst, un Medium der Offenlichkeit Zustimmungsberictschaft ZU erzeugen (Hermann Lubbe), Siehe Asel Gorlitz/Rudiger Voigt, Rechtspolitologic, Eine Einfuhrung, Opladen 1985; eike von Hippel; Rechtspolitik, Berlin, 1992).
Như vậy, luật học phương Tây ngày càng gắn chính sách pháp luật với các công việc, với các hoạt động thực tiễn; chính sách pháp luật phục vụ việc tối tru hóa sự điều chỉnh pháp luật. Hơn nữa, sự phù hợp với chính sách pháp luật là điều kiện (tiêu chuẩn) quan trọng nhất của cả việc sử dụng pháp luật nước ngoài, lẫn việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Ý nghĩa thực tiễn của chính sách pháp luật ngày càng được gia tăng trong quá trình phát triển của pháp luật.
Trong khoa học Xô viết, cho dù có sự tác động rất mạnh của hệ tư tưởng và nguyên tắc tính đảng, các nghiên cứu về chính sách pháp luật vẫn được tiến hành. Các nghiên cứu đó rất đa dạng và phần lớn được chính trị hóa, ở một chừng mực đáng kể, điều đó đã kìm hãm quá trình phân tích có giá trị dầy đủ hiện tượng chính sách pháp luật (theo A.V. Mal'ko, V.A. Zatonskij: Chính sách pháp luật: Những cơ sở lý luận và thực tiễn: tổhợp phương pháp giảng dạy, Sđd, tr.113 (bản tiếng Nga).
Sự kiện thảo luận và thông qua Hiến pháp năm 1977 của Liên Xô (cũ) và công cuộc cải tổ được tiến hành ở Liên Xô (cũ) đã đem đến sự chuyển biến nhất định cho quá trình nghiên cứu về chính sách pháp luật. Trong giai đoạn đó ở Liên Xô (cũ) các công trình nghiên cứu của V.N. Kudrjavcev, K.d. Krylov, N.p. Koldaeva, E.v. Kumanin, N.v. Fedorov, L.s. Javich và của các tác giả khác đã được công bố, trong các công trình đó các khía cạnh cụ thể của chính sách pháp luật đã được đặt ra và đã được xem xét.
Ví dụ, Viện sĩ V.N. Kudrjavcev đề nghị đưa các cơ sở khoa học của chính sách pháp luật vào đối tượng nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Theo Viện sĩ V.N. Kudrjavcev, trong phạm vi của lý luận chung về nhà nước và pháp luật "có thể xem xét vấn đề rằng, các nguyên tắc và luận điểm tương ứng trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước được thể hiện như thế nào trong các quy phạm pháp luật và trong thực tiễn hoạt động của các tô chức pháp lý, trong ý thức của công dân (theo V.N. Kudrjavcev: Pháp luật và hành vi, Sđd, tr.166 (bản tiếng Nga).
Trong công trình "Pháp luật và hành vi", Viện sĩ khẳng định rằng, "đặc điểm đặc trưng của chính sách pháp luật thể hiện ở chỗ, chính sách đó bao giờ cũng đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp của điều chỉnh pháp luật” (theo V.N. Kudrjavcev: Pháp luật và hành vi, Sđd, tr.163 (bản tiếng Nga).
- N.p. Koldaeva cho rằng, chánh sách xây dựng pháp luật là một loại của chính sách pháp luật và coi chính sách xây dựng pháp luật là "giai đoạn khởi đầu trong quá trình hình thành pháp luật” (theo N.p. Koldaeva: "Các nhân tô' chính trị - xã hội của xây dựng pháp luật” trong sách Các cơ sở khoa học của xây dựng pháp luật, Mátxcơva, 1981).
- N.v. Fedorov là nhà nghiên cứu chuyên sâu về chính sách pháp luật của Nhà nước Xô viết dưới phương diện lịch sử, lý luận và thực tiễn đã chi ra rằng, "chính sách pháp luật là khái niệm tổng hợp, khái quát, chỉ ra các cơ sở lý luận - tư tưởng và các định hướng hoạt động cơ bản của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Chức năng cơ bản của chính sách pháp luật là soạn thảo một chiến lược khoa học thống nhất và một đường hướng chính trị thực tiễn về xây dựng pháp luật dựa trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật và xu hướng chung quyết định sự phát triển pháp luật trong xã hội. Trên cơ sở đó tác giả rút ra kết luận, theo đó, việc soạn thảo hoàn chỉnh một chính sách pháp luật là nhiệm vụ tập thể quan trọng của các nhà khoa học.
3. Vai trò, ý nghĩa chuyên khảo tập thể
Trong chuyên khảo tập thể có giá trị, ý nghĩa quan trọng "Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa" gồm hai tập, E.v. Kumanin viết phần "chính sách pháp lý: khái niệm và các nguyên tắc", ở đó tác giả khẳng định rằng, "cùng với việc sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động xác định các định hướng cơ bản và hoạt động đưa chính sách pháp lý vào đời sống, chính sách pháp lý cũng tham gia vào quá trình thực hiện các chức năng và cơ chế chính trị về mối liên hệ lẫn nhau của hệ thống chính trị và hệ thống pháp luật". Chính tổng thể "những tác động chính trị đặc biệt, những tác động theo đuổi các mục tiêu hình thành và thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo thành chính sách pháp luật", chính sách đó "bao quát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm thay đổi các quy định pháp luật hoặc các đặc điểm cụ thể của chúng", chính sách đó "hướng đến việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cải tiến thực tiễn thực hiện pháp luật, tạo ra các điều kiện tối ưu cho việc nâng cao tính tích cực pháp luật của công dân".
- Theo L.s. Javich cũng cho rằng, cùng với chính sách kinh tế và xã hội, chính sách trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường sống, trong lĩnh vực quốc phòng và các quan hệ đối ngoại, quản lý hành chính, có một lĩnh vực được tách ra, lĩnh vực bao quát toàn bộ hoạt động xây dựng quy phạm pháp luật và áp dụng quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, lĩnh vực đó có thê’ được gọi là chính sách pháp luật của Nhà nước. Theo quan điểm của tác giả, chính sách pháp luật cần được hiểu là các nguyên tắc và các nhiệm vụ quan trọng nhất được Nhà nước đưa vào cuộc sống khi ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong tác động tư tưởng đến ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật của dân cư".
4. Bàn về sự mâu thuẫn "chính sách pháp luật" trong thời kỳ Xô viết
Như vậy, qua nghiên cứu cho thấy, sự phát triển lý luận về chính sách pháp luật trong thời kỳ Xô viết mang tính chất mâu thuẫn.
Một mặt, định hướng nghiên cứu đó được thừa nhận là đặc biệt quan trọng. Không nên đánh giá thấp về những gì đã được nghiên cứu trong giai đoạn nói trên ở Liên Xô (cũ), bởi lúc đó "nhiều nhà khoa học đã tư duy bằng các phạm trù chung của xã hội loài người, nhưng buộc phải "che giấu" các tư tưởng đó dưới một phân tư tưởng của đời sống xã hội".
Đồng thời, mặt khác, trước hết, do các yếu tố khách quan, vần đề nói trên đã bị chính trị hóa và tư tưởng hóa một cách quá mức. Nguyên tắc tính đảng đã cản trở việc phân tích khách quan các quá trình chính trị - pháp lý đã diễn ra trong xã hội Xô viết. Tư tưởng về chính sách pháp luật cũng có sự mâu thuẫn sâu sắc với hệ tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội và với mục tiêu của nó - chủ nghĩa cộng sản, tức là xã hội không có nhà nước và pháp luật ở xã hội Xô viết lúc đó. Từ đây người ta quan niệm rằng, chức năng cơ bản của chính sách pháp luật thể hiện ở việc xây dựng các điều kiện cho sự chuyển biến xã hội mà về nguyên tắc không tương hợp với cả pháp luật, lẫn với chính sách đó. Quan niệm về chính sách pháp luật theo cách tiếp cận như vậy, về thực chất, đã biến thành sự mâu thuẫn của mình, thành quan niệm về chính sách không phải hướng đến việc khẳng định và phát triển pháp luật, mà đến việc loại bỏ liên tục pháp luật.
5. Kết thúc vấn đề
Như vậy, trong điều kiện khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, chính sách pháp luật chỉ có thể được coi là một trong những phương tiện trong hệ thống quản lý xã hội. Trong giai đoạn này không thể nói về chính sách pháp luật với tư cách là cách tiếp cận chính sách độc lập trong nghiên cứu pháp luật và là hoạt động chuyên môn nhằm bảo đảm quyền và tự do của con người và công dân, sự bình thành nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ, pháp quyền. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà chính sách pháp luật chỉ được nghiên cứu một cách tích cực trong giai đoạn hậu Xô viết ở nước Nga.
Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).