1. Người làm chứng là gì?

Theo khoản 1 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 "Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng."

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định, người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. So với quy định này thì, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn. Theo đó, người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Những người sau đây không được làm chứng: người bào chữa của người bị buộc tội; người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.

2. Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định bổ sung thêm một số quyền của người làm chứng nhằm không chỉ bảo vệ người làm chứng mà còn bảo vệ người thân thích của người làm chứng. Người làm chứng có các quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng; được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng có nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó.

Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Để tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

3. Lời khai của người làm chứng

Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định sự thật của vụ án hình sự. Việc xác định xuất xứ thông tin, lý do vì sao người làm chứng biết được tình tiết đó là một điều cần thiết. Người làm chứng có thể trực tiếp chứng kiến vụ án, trực tiếp biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án mà không thông qua một khâu trung gian nào hoặc họ có thể được nghe người khác kể lại. Thông qua việc xác định nguồn gốc của những lời khai này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đề ra được biện pháp thu thập thêm chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách hợp lý. Thông thường, lời khai của người làm chứng có tính trung thực, khách quan cao, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật của vụ án. Tuy nhiên, nếu tất cả những tình tiết do người làm chứng trình bày đều được dùng làm chứng cứ mà không cần xem xét đến việc người làm chứng biết được những tình tiết đó bằng cách nào thì lời khai thu thập được không đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ. Bởi lẽ, có những trường hợp người làm chứng khai báo thông tin không đúng sự thật: có thể trên thực tế có những tình tiết như người làm chứng khai báo nhưng đã bị bóp méo theo ý chí chủ quan của người làm chứng hoặc không hề có tình tiết đó nhưng người làm chứng đã cố tình xuyên tạc hay làm giả để vu khống hoặc có thể là bao che cho người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên thực tế, do tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: khả năng tiếp nhận thông tin của người làm chứng, mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội hoặc người bị hại… mà lời khai của họ có thể dẫn đến việc thông tin về vụ án thiếu tính chính xác. Do đó, khi lấy lời khai của người làm chứng, việc xác minh lý do họ biết được tình tiết liên quan đến vụ án được xem là một điều bắt buộc trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Trường hợp người làm chứng có những hành vi khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Điều 383 BLHS năm 2015, nếu người làm chứng khai không đúng sự thật, cố tình bịa đặt, cung cấp tài liệu giả mạo, gian dối nhằm chuyển hướng dư luận, nhiễu loạn thông tin, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan tố tụng, sẽ phải chịu chế tài hình sự với mức hình phạt thấp nhất là cảnh cáo và cao nhất là 5 năm tù giam.

4. Những trường hợp không được làm chứng

Kế thừa Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003, khoản 2 Điều 66 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định những trường hợp không được làm chứng bao gồm:

- Người bào chữa của người bị buộc tội;

- Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.

5. Bảo vệ người làm chứng

Để bảo vệ người làm chứng, người tố giác tội phạm, bị hại và người tham gia tố tụng khác, Bộ luật TTHS năm 2015 đã dành một chương riêng - Chương 34 quy định về các biện pháp bảo vệ các đối tượng này. Theo đó, khi tham gia tố tụng, nếu người làm chứng bị cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có hành vi đe doạ hoặc cưỡng bức đến bản thân hoặc người thân thích trong gia đình thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ được quy định tại Điều 486 Bộ luật TTHS. Trong trường hợp khẩn cấp, người làm chứng có thể đến trực tiếp cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Sau đó Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cứ, tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ, nếu đủ căn cứ thì ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ và lập hồ sơ bảo vệ. Nếu xét thấy không cần thiết áp dụng thì phải giải thích rõ cho người đã yêu cầu, đề nghị biết. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng là Cơ quan điều tra của Công an nhân dân và Cơ quan điều tra của Quân đội nhân dân (Điều 485 Bộ luật TTHS). Thời gian bảo vệ người làm chứng được tính từ khi có quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ (Điều 489 Bộ luật TTHS).

Vấn đề bảo vệ người làm chứng đã được pháp luật nhiều nước trên thế giới quy định và áp dụng từ lâu. Nước Mỹ có cả quy chế đầy đủ và chặt chẽ để bảo vệ người làm chứng nhằm mục đích tránh sự trả thù hoặc các hành vi làm phương hại đến người làm chứng của bị can, bị cáo và những người có liên quan. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ là người xem xét cho nhân chứng và người thân khi gặp nguy hiểm tham gia chương trình bảo vệ người làm chứng, với điều kiện nhân chứng phải ký cam kết về nội dung, phương án bảo vệ, việc giám hộ, thăm nom và biện pháp xử lý vi phạm… Người tham gia chương trình bảo vệ nhân chứng được đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe và tài sản cùng các phúc lợi xã hội khác. Năm 2004, Liên bang Nga ban hành Luật Bảo vệ nhân chứng, đến năm 2006, Chính phủ Nga thông qua chương trình nhà nước bảo vệ nạn nhân và nhân chứng và những người tham gia tố tụng khác với số tiền lên đến 01 tỷ rúp (tương đương 633 tỷ đồng) cho riêng giai đoạn 2006 đến 2008. Ngày 23/6/2010, Nga thành lập Cục Bảo vệ nhân chứng và quan toà trực thuộc Bộ Nội vụ liên bang nhằm bảo vệ những người thuộc diện bảo vệ của Nhà nước. Tại Philippines, năm 1991 Bộ Tư pháp nước này đã triển khai chương trình trợ cấp an ninh và bảo vệ nhân chứng. Tham gia chương trình nhân chứng, người làm chứng và người thân có thể thay đổi chỗ ở, được trợ cấp tiền bạc, thanh toán chi phí đi lại và trợ cấp đi lại. Quy chế Rome về Toà án Hình sự quốc tế cũng đã quy định giải pháp bảo vệ nhân chứng và nạn nhân bằng các biện pháp phòng ngừa và lập Phòng nạn nhân, Phòng nhân chứng.

So với Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 có một số điểm mới sau: Nếu như Bộ luật TTHS năm 2003 quy định trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm chưa phát sinh tư cách người làm chứng, thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi Cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm; Bộ luật TTHS năm 2015 cũng xác định rõ cơ chế, biện pháp bảo vệ người làm chứng, tạo tâm lý an tâm cho người tham gia làm chứng khi tham gia tố tụng, nhất là trong những vụ án phức tạp có tổ chức. Đây là bước tiến mới của Bộ luật TTHS năm 2015 thể hiện tinh thần cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với pháp luật quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm, chống oan sai và bỏ lọt tội phạm, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hộitrong điều kiện đất nước đang trong quá trình hội nhập.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)