Mục lục bài viết
- 1. Giám đốc thẩm là gì?
- 2. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS 2003
- 3. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS 2015
- 4. Những điểm khác nhau về thẩm quyền kháng nghị trong hai BLTTHS
- 5. Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự của Việt Nam và một số nước trên thế giới
1. Giám đốc thẩm là gì?
Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt, chỉ được tiến hành khi có kháng nghị giám đốc thẩm. Đó là đặc điểm khác biệt so với các thủ tục xét xử thông thường như sơ thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có khởi kiện hợp pháp của đương sự), phúc thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có kháng cáo hợp pháp của đương sự hoặc các kháng nghị của Viện kiểm sát). Các Thẩm phán không tham gia trực tiếp giám đốc thẩm cũng có thể tham gia vào trình tự giám đốc công tác xét xử bằng việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
Đối tượng của việc kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm:
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Kháng nghị và giám đốc thẩm là cơ chế nhằm khắc phục sai lầm nghiêm trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ án mà bản án, quyết định đó đã có hiệu lực. Vì vậy, cấp giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ 3 sau sơ thẩm và phúc thẩm.
2. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS 2003
Theo Điều 275 BLTTHS 2003:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
3. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS 2015
Theo Điều 373 BLTTHS 2015:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
4. Những điểm khác nhau về thẩm quyền kháng nghị trong hai BLTTHS
Tuy diễn đạt có khác để bảo đảm tính cụ thể, chính xác của điều luật, nhưng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 giữ nguyên quy định thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án khác (Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực), trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; thẩm quyền của Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
Đồng thời, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hai điểm mới: (1) Bỏ Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu; (2) Bổ sung quy định thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thu hẹp thẩm quyền, không giao cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hợp lý nhằm bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trong phạm vi rộng; khắc phục tình trạng nhiều tỉnh hàng năm không thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng vẫn tồn tại tổ chức, bộ máy để thực hiện nhiệm vụ này dẫn đến tốn kém, lãng phí không cần thiết.
Đồng thời với việc quy định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Điều 377 cũng quy định những người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó.
5. Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự của Việt Nam và một số nước trên thế giới
Về những người có quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm:
Theo Điều 372 BLTTHS 2015:
Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị.
Tòa án quân sự cấp quân khu thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án quân sự trung ương xem xét kháng nghị.
Qua nghiên cứu luật tố tụng hình sự của các nước thấy pháp luật của Việt Nam quy định quá rộng đối tượng có quyền phát hiện, đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm. Theo Điều 203 BLTTHS Trung Quốc, chỉ có đương sự hoặc người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc họ hàng thân thích của họ có thể nộp đơn đến Tòa án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu xem xét lại tính pháp lý của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều 402 BLTTHS Liên bang Nga quy định: Người bị kết án, người được Tòa án tuyên vô tội, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ cũng như Kiểm sát viên có quyền kháng cáo, kháng nghị về việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật[4]. Điều 56 BLTTHS Cộng hòa Pháp quy định: trong trường hợp quyết định của Tòa án điều tra phúc thẩm, bản án phúc thẩm, bản án chung thẩm về trọng tội, khinh tội hoặc tội vi cảnh có vi phạm pháp luật, thì Viện công tố hoặc các bên bị thiệt hại có thể kháng cáo, kháng nghị lên Tòa Phá án để xin hủy quyết định hoặc bản án đó[5]. Điều 216 BLTTHS Thái Lan quy định: Các bên có quyền kháng cáo DIKA đối với bản án hay quyết định phúc thẩm. Điều 691 BLTTHS Canada chỉ quy định người bị kết án có quyền kháng cáo lên Tòa án tối cao Canada nếu bản án sơ thẩm vẫn được Tòa phúc thẩm giữ nguyên. BLTTHS của Nhật Bản lại không quy định ai có quyền phát hiện, yêu cầu xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm:
Theo Điều 371 BLTTHS 2015, Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:
- Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước cho thấy họ quy định rất cụ thể các căn cứ để kháng nghị giám đốc thểm. Điển hình như quy định tại Điều 381 BLTTHS Liên Bang Nga: “Những căn cứ để Tòa án cấp trên hủy bỏ hoặc sửa bản án, quyết định của Tòa án là những vi phạm luật tố tụng hình sự bằng cách tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của những người tham gia tố tụng được Bộ luật này bảo đảm, không tuân thủ thủ tục tố tụng hoặc bằng cách khác ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến việc ra bản án đúng pháp luật, có căn cứ và công bằng”. Điều 592 BLTTHS của nước này quy định rõ những vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến bản án bị tuyên bố vô tội có thể là: Số lượng thẩm phán xét xử không theo đúng quy định của pháp luật hoặc có những Thẩm phán không tham gia tất cả các phiên tòa xét xử cùng một vụ án; nếu Tòa án ra quyết định mà không nghe Viện Công tố trình bày. Ngoài ra, nếu quyết định không được đưa ra tại phiên tòa công khai hoặc nếu việc xét hỏi, tranh luận không được tiến hành tại phiên tòa công khai thì quyết định sẽ bị vô hiệu, trừ những trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)