1. Khái niệm về bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất: 

Thuật ngữ "bồi thường" thường được dùng để chỉ trách nhiệm của một người phải đền bù những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Định nghĩa này được mô tả trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng. Xét về pháp lý, trách nhiệm bồi thường xảy ra khi một chủ thể pháp luật vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường có thể được quy định trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai 2013, "bồi thường về đất" là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi. Việc bồi thường là hậu quả pháp lý của việc Nhà nước thu hồi đất và chỉ xảy ra sau khi có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: 

Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, khái niệm hỗ trợ có nghĩa là "giúp đỡ thêm, bổ sung thêm".

Luật Đất đai năm 2013 đã đề cập đến khái niệm này cụ thể là "Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước hỗ trợ cho người sử dụng đất bị thu hồi để ổn định cuộc sống, sản xuất và phát triển". Theo đó, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là hoạt động nhằm giúp người sử dụng đất bị thu hồi ổn định cuộc sống, sản xuất và phát triển, trong trường hợp các quy định về bồi thường chưa đầy đủ bù đắp những thiệt hại mà họ phải chịu.

2. Bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có những điểm gì khác nhau?

Bồi thường đất và hỗ trợ nhìn chung đều là những chính sách của Nhà nước nhằm bù đắp phần nào tổn thất cho người có đất bị thu hồi. Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đều sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất vẫn mang những đặc điểm khác nhau, cụ thể, có thể phân biệt qua các tiêu chí sau đây:

Về bản chất:

Từ những khái niệm nêu trên đây, có thể rút ra rằng, nếu bồi thường là việc Nhà nước trả lại một cách tương xứng những giá trị về đất và tài sản gắn liền với đất mà người sử dụng đất bị thiệt hại, thì hỗ trợ là chính sách của Nhà nước, là một biện pháp bổ sung nhằm giúp đỡ, chia sẻ khó khăn đối với người thu hồi đất, bù đắp cho những khoảng trống mà các quy định về bồi thường chưa giải quyết một cách triệt để, đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Về nguyên tắc:

Nguyên tắc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất gồm:

- Thứ nhất, người sử dụng đất sẽ được bồi thường nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013.

- Thứ hai, việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng cách giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi. Nếu không thể giao đất bồi thường, người sử dụng đất sẽ được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi, được quyết định bởi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

- Thứ ba, việc bồi thường phải đảm bảo các nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

 Về nguyên tắc hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất gồm:  Người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất sẽ không chỉ được bồi thường theo quy định của Luật, mà còn có thể được xem xét hỗ trợ từ Nhà nước. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này phải được đảm bảo khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật.

Về điều kiện:

-  Điều kiện để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: đất phải không có nghĩa vụ trả tiền thuê đất hàng năm, và phải đáp ứng yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật đất Đai 2013. Ngoài ra, đối với trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất, người sử dụng đất vẫn có thể nhận được bồi thường nếu đáp ứng đủ hai tiêu chí sau: đất đó là đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004 và người sử dụng đất là hộ gia đình hoặc cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.

- Điều kiện để được hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất: Hiện tại, pháp luật chưa có quy định cụ thể về điều kiện hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, người sử dụng đất có thể được hỗ trợ thêm tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Bởi vì bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước đối với thiệt hại từ hành vi mà mình gây ra, trong khi đó hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến xã hội.

Về các khoản bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất 

Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về các khoản bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Mức đền bù phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, có thể được thực hiện bằng đất hoặc bằng tiền theo giá đất của loại đất bị thu hồi.

Trong khi đó, pháp luật quy định rõ các khoản hỗ trợ được cung cấp khi nhà nước thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ này bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình và cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình và cá nhân phải di chuyển chỗ ở. Ngoài ra, các chủ thể thu hồi đất cũng có thể được hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các khoản hỗ trợ khác.

3. Một số bất cập trong phân định giữa bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

Pháp luật hiện hành đang gặp khó khăn trong việc phân định khái niệm "bồi thường" và "hỗ trợ" khi nhiều trường hợp sử dụng cụm từ "hỗ trợ" nhưng thực chất là "bồi thường". Vì tất cả các thiệt hại do hoạt động thu hồi đất gây ra đều phải được quy về một mối và áp dụng quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Trong khi đó, cụm từ "hỗ trợ" chỉ nên được áp dụng trong trường hợp "không đủ tính pháp lý" để được xét bồi thường, ví dụ như xây dựng nhà trên bờ kè không có giấy tờ đất hoặc áp dụng đối với tổ chức kinh tế được giao đất vừa thu hồi muốn hỗ trợ thêm việc làm hoặc chi phí bảo hiểm y tế cho người có đất bị thu hồi.

Một số quan điểm đề xuất sửa đổi cụm từ "hỗ trợ" thành cụm từ "bồi thường" khi Nhà nước thu hồi đất. Vì các nội dung mô tả trong cụm từ "hỗ trợ" nhưng thực chất là "bồi thường" như thiệt hại từ sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế bị ngừng hoạt động khi Nhà nước thu hồi đất, cần được bồi thường thay vì hỗ trợ. Tuy nhiên, Luật Đất đai 2013 quy định được bồi thường, trong khi Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chỉ được xem xét hỗ trợ, do đó cần phải nghiên cứu kỹ nội dung này. Nếu xác định hoạt động thu hồi đất gây mất nghề nông nghiệp hoặc xáo trộn sản xuất và đời sống, thì cần quy định bồi thường để đền bù cho thiệt hại như mất việc làm và để ổn định đời sống, sản xuất. Trong các quốc gia tiên tiến, khi Nhà nước trưng mua đất, chỉ có một quy định duy nhất là bồi thường, hoàn toàn không có các quy định về hỗ trợ.

Bất cập trong việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đó là do không đứng trên quan điểm "xác định thiệt hại" trước khi giải quyết vấn đề "bồi thường thiệt hại". Mặc dù đối tượng thu hồi là đất, nhưng thiệt hại mà người dân phải chịu đựng không chỉ bao gồm việc mất quyền sử dụng đất bị buộc phải dời chuyển mà còn liên quan đến rất nhiều tài sản khác gắn liền hoặc liên quan đến đất bị thiệt hại. Việc thiếu quy định này thể hiện rõ ràng sự thiếu suy nghĩ từ góc độ của người bị thiệt hại, mà chỉ tập trung vào quan điểm của người thu hồi đất và mong muốn sớm đạt được mục đích của họ. Điều này đã dẫn đến hệ lụy không xác định đúng, không đủ để bồi thường cho những thiệt hại mà người dân có đất bị thu hồi phải gánh chịu. Nếu Luật Đất đai 2003 đã có quy định khái niệm "bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất", thì Luật Đất đai 2013 và Dự thảo hiện tại đều không còn giải quyết được vấn đề này.

Để tìm hiểu thêm thông tin liên quan, mời quý bạn đọc tham khảo bài viết: Mức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất đai được quy định như thế nào ?

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê liên quan đến vấn đề: Phân biệt bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Mọi thắc mắc chưa rõ hay có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách hàng vui lòng liên hệ với bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline: 1900.6162 hoặc gửi yêu cầu tư vấn qua email: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ và giải đáp kịp thời. Xin trân trọng cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khkhi