1. Khái niệm quy phạm pháp luật xung đột

Quy phạm pháp luật xung đột là quy phạm đặc thù quy định hệ thống pháp luật một nước sẽ được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế nhất định.

Quy phạm pháp luật xung đột thực hiện chức năng dẫn chiếu (chỉ ra) hệ thống pháp luật nào được áp dụng, do đó, quy phạm pháp luật xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế, mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào đó nhằm điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế nhất định.

Quy phạm pháp luật xung đột là Quy phạm đặc thù quy định hệ thống pháp luật một nước sẽ được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế nhất định. Quy phạm pháp luật xung đột được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam là những quy định mang tính đặc thù điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài và quan hệ tố tụng dân sự quốc tế được áp dụng tại Việt Nam để giải quyết các tranh chấp và vụ việc dân sự.

Nếu quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, hình thức, biện pháp chế tài cụ thể thì quy phạm xung đột là quy phạm gián tiếp, quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. đưa ra nguyên tắc chung trong việc xác định pháp luật áp dụng giải quyết một quan hệ hoặc một tình huống cụ thể.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định:

“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;

b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”

Khoản 2 Điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng xác định phạm vi của các vụ ciệc dân sự có yếu tố nước ngoài gồm:

“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài;

b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”

Quy phạm xung đột luôn mang tính dẫn chiếu: khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ một các dứt điểm thì ở đây ta lại thấy tính chất song hành giữa quy phạm thực chất với quy phạm xung đột trong điều chỉnh pháp luật.

 

2. Cấu trúc quy phạm pháp luật xung đột

Cấu trúc của quy phạm xung đột về phần cấu trúc bao gồm hai bộ phận: phần phạm vi và phần hệ thuộc.

Phạm vi là phần quy định quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong các lĩnh vực như: Tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và việc dân sự về các yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Phần hệ thuộc là phần quy định chỉ ra luật pháp nước nào được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật đã ghi ở phần phạm vi.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 3 Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.

Theo quy định này thì phần phạm vi ở đây là tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn và phần hệ thuộc là pháp luật của nước nơi có bất động sản.

 

3. Đặc điểm của quy phạm pháp luật xung đột

Đặc điểm về đặc tính gồm hai điểm nổi bật:

 

3.1 Tính trừu tượng, phức tạp

Quy phạm xung đột sẽ không đưa ra các chế tài hay phương án để giải quyết các sự việc, mà nó chỉ là một kênh luật trung gian, chỉ định, chọn lựa luật pháp của một nước cụ thể giải quyết nên cấu trúc khá phức tạp, mang tính trừu tượng cao.

Như quy định tại Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì:

“1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam.

2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.

3. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.”

 

3.2 Tính điều chỉnh gián tiếp

Tính điều chỉnh gián tiếp thể hiện ở chỗ quy phạm xung đột sẽ làm nhiệm vụ dẫn chiếu để tìm ra phương án giải quyết các quan hệ phát sinh. Quy phạm xung đột luôn mang tính dẫn chiếu, khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ một các dứt điểm thì ở đây ta lại thấy tính chất song hành giữa quy phạm thực chất với quy phạm xung đột trong điều chỉnh pháp luật.

Theo quy định tại Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền riêng biệt của pháp luật Việt Nam đối với các trường hợp như Vụ án dân sự đó có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam hoặc Yêu cầu xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.

Ví dụ: Về một quy phạm xung đột có tính dẫn chiếu pháp luật được áp dung như sau:

Khoản 1,2 Điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

1. Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.

2. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.”

Như vậy, bất động sản ở nước nào sẽ áp dụng pháp luật nước đó trong việc xác định quyền thừa kế cũng như phụ thuộc vào quốc tịch của người để lại di sản trước khi chết để xác định pháp luật áp dụng đối với thừa kế di sản của người đó.

 

4. Phân loại quy phạm xung đột

Xét về mặt kĩ thuật xây dựng quy phạm thì người ta phân quy phạm xung đột làm hai loại:

Quy phạm xung đột một bên: Đây là quy phạm chỉ ra quan hệ dân sự này chỉ áp dụng luật pháp của một nước cụ thể.

Ví dụ: Khoản 1 Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

“Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.”

Ví dụ: Khoản 2 Điều 769 BLDS:

“ Hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Quy phạm xung đột hai bên (hai chiều) đây là những quy phạm đề ra nguyên tắc chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn áp dụng luật của một nước nào đó để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng.

Ví dụ: Khoản 2 Điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

 

5. Hiệu lực, áp dụng quy phạm xung đột tại Việt Nam

Việc áp dụng các quy phạm pháp luật xung đột tại Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Cụ thể Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thứ tự ưu tiên áp dụng các quy phạm dẫn chiếu: Đầu tiên là theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam, thứ hai là trong trường hợp pháp luật hoặc điều ước quốc tế quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên, cuối cùng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.

Phạm vi áp dụng của các quy phạm xung đột cũng được ghi nhận rõ tại Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2015:

“1. Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.

2. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.

3. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.

4. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này thì pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng.”

Hiệu lực của các quy phạm xung đột được dẫn chiếu đến của pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng tại Việt Nam trừ trường hợp được quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2015:

“1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;

b) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.

2. Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.”

Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)