Mục lục bài viết
1. Khái niệm tai nạn lao động do lỗi của NLĐ
Khái niệm tai nạn lao động do lỗi của người lao động (NLĐ) được hiểu là các sự cố, sự việc không may xảy ra trong quá trình làm việc mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc NLĐ vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động hoặc do thái độ chủ quan, sự cẩu thả của NLĐ trong quá trình thực hiện công việc, góp phần gây ra tai nạn.
Tai nạn lao động do lỗi của NLĐ có thể bao gồm nhiều tình huống khác nhau. Ví dụ, một người lao động không tuân thủ quy tắc sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân khi làm việc trong môi trường nguy hiểm, dẫn đến việc bị thương trong một tai nạn. Hoặc một người lao động không tuân thủ quy định về an toàn khi làm việc trên cao, gây nguy hiểm cho chính mình và những người xung quanh.
Thái độ chủ quan và sự cẩu thả của người lao động cũng là một nguyên nhân quan trọng góp phần vào tai nạn lao động. Khi NLĐ không chú ý đến quy tắc an toàn, không kiểm tra và bảo dưỡng thiết bị, công cụ làm việc đúng cách, hoặc không tuân thủ quy định về việc sử dụng chất độc hại, có thể xảy ra những tình huống nguy hiểm không đáng có.
Tai nạn lao động do lỗi của NLĐ không chỉ gây tổn thương cho chính NLĐ mà còn có thể ảnh hưởng đến sự an toàn và sức khỏe của những người lao động khác trong cùng môi trường làm việc. Ngoài ra, nó cũng có thể gây thiệt hại về kinh tế và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
2. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường đối với tai nạn lao động do lỗi của người lao động
Theo quy định tại Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Cụ thể, trách nhiệm này bao gồm các điểm sau đây:
- Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
- Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:
+ Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;
+ Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;
+ Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;
- Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;
- Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
+ Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;
- Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật;
- Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;
- Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;
- Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này;
- Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.
- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều này.
Theo quy định của Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, trong trường hợp xảy ra tai nạn lao động do lỗi của người lao động, người sử dụng lao động không phải bồi thường mà chỉ phải trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% so với mức quy định tại khoản 4 của Điều 38. Mức trợ cấp này sẽ được xác định tương ứng với mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao động.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động không chỉ dừng lại ở việc trợ cấp tài chính. Họ còn có nhiều trách nhiệm khác đối với người lao động bị tai nạn lao động do lỗi của chính họ. Đầu tiên, người sử dụng lao động phải xử lý kịp thời và cấp cứu người lao động bị tai nạn để tránh tình trạng trầm trọng hơn xảy ra. Họ phải đảm bảo nhân viên được sơ cứu và chăm sóc y tế ngay sau tai nạn.
Ngoài ra, người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm chi trả toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu cho đến khi người lao động hồi phục chức năng lao động. Điều này bao gồm việc thanh toán các chi phí y tế không được bảo hiểm y tế chi trả và trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động. Đối với những người lao động không tham gia bảo hiểm y tế, người sử dụng lao động phải chi trả toàn bộ chi phí y tế.
3. Có bắt buộc người sử dụng lao động phải thực hiện sơ cứu cho người lao động bị tai nạn lao động không?
Theo quy định của Nghị định số 39/2016/NĐ-CP, người sử dụng lao động của cơ sở nơi xảy ra tai nạn lao động có những trách nhiệm cụ thể như sau:
- Kịp thời tổ chức sơ cứu, cấp cứu người bị nạn: Người sử dụng lao động phải có sự chuẩn bị và tổ chức sẵn sàng để cấp cứu ngay lập tức khi xảy ra tai nạn lao động. Họ cần đảm bảo có đủ trang thiết bị y tế, người làm công tác cấp cứu được đào tạo và kiến thức về sơ cứu để xử lý tình huống nguy hiểm một cách nhanh chóng và hiệu quả. Việc sơ cứu kịp thời sẽ giúp giảm thiểu các biến chứng và tăng khả năng phục hồi của người bị nạn.
- Khai báo tai nạn lao động: Ngay sau khi xảy ra tai nạn lao động, người sử dụng lao động phải tiến hành khai báo theo quy định tại Điều 10 của Nghị định. Việc khai báo này là để ghi nhận thông tin chi tiết về tai nạn, bao gồm thời gian, địa điểm, nguyên nhân của tai nạn, tình hình thương tích của người bị nạn và các thông tin liên quan khác. Qua việc khai báo, cơ quan chức năng sẽ có cơ sở để tiến hành điều tra, xác minh và xử lý các vụ tai nạn lao động.
Tổng quan, việc sơ cứu kịp thời cho người bị nạn là một trách nhiệm quan trọng của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trách nhiệm này không chỉ giới hạn ở mức độ cấp cứu mà còn bao gồm một loạt các biện pháp và trách nhiệm khác nhằm đảm bảo an toàn lao động. Người sử dụng lao động phải chuẩn bị sẵn sàng về trang thiết bị và nhân viên đào tạo sơ cứu, đồng thời đảm bảo rằng môi trường làm việc an toàn và cung cấp thông tin, hướng dẫn cho nhân viên về an toàn lao động.
Bài viết liên quan: Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê về vấn đề: Trách nhiệm bồi thường đối với tai nạn lao động do lỗi của NLĐ? Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn và rất hân hạnh được đồng hành cùng quý khách!