NỘI DUNG TƯ VẤN:
Từ trước đến nay, tranh chấp quốc tế luôn được xác định là một trong những vấn đề thời sự rất được nhiều quốc gia cũng như toàn thể nhân loại quan tâm. Vì thế, việc thiết lập các cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp là một nhu cầu quan trọng được đặt ra trong đời sống quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh đó thì Tòa án Công lý quốc tế đã được thành lập để giải quyết các tranh chấp xảy ra, vậy thì thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý quốc tế được thể hiện như thế nào chúng ta cần đi vào phần nội dung.
1. Khái quát chung về Tòa án Công lý quốc tế
Tòa án Công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, được thành lập năm 1945 trên cơ sở kế thừa Toà án Thường trực quốc tế của Hội quốc liên và hoạt động theo quy chế một bộ phận không tách rời của Hiến chương Liên hợp quốc. Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đương nhiên được coi là thành viên của quy chế Tòa án Công lý Quốc tế (TACLQT). Các nước không phải là thành viên Liên hợp quốc có thể tham gia quy chế Tòa án Công lý quốc tế nếu được Hội đồng Bảo an đề nghị và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận. Các nước không tham gia quy chế cũng có thể yêu cầu Tòa án Công lý quốc tế xét xử tranh chấp nếu được Hội đồng Bảo an cho phép. Trụ sở của Tòa án Công lý quốc tế đặt tại La Hay (Hà Lan).
1.1 Nhiệm vụ của Tòa án Công lý quốc tế:
Nhiệm vụ trọng tâm của Liên hợp quốc là giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế (Điều 1 của Hiến chương Liên hợp quốc). Điều 33 của Hiến chương cũng chỉ rõ, trong số các phương pháp giải quyết hoà bình có phương pháp sử dụng trọng tài và giải quyết của toà án (theo luật pháp). Nhiệm vụ chính của Tòa án Công lý quốc tế: 1) Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia và giữa các tổ chức quốc tế trên cơ sở luật pháp quốc tế. Các thể nhân và pháp nhân không có quyền đưa các tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án Công lý quốc tế. 2) Làm chức năng tư vấn pháp lí (kết luận pháp lí) cho Hội đồng Bảo an, Hội đồng Thường trực và cho các tổ chức khác của Liên hợp quốc. Tòa án Công lý quốc tế được quyền ra các quyết định bằng phương thức biểu quyết trên nguyên tắc quá bán với số đại biểu hợp lệ là không được ít hơn 9 người. Quyết định của Tòa án Công lý quốc tế mang tính chất bắt buộc, có hiệu lực ngay và các đương sự không có quyền khiếu nại. Trong trường hợp quyết định của Tòa án Công lý quốc tế không được thi hành, Tòa án Công lý quốc tế có thể yêu cầu Hội đồng Bảo an giúp đỡ để quyết định được thi hành. Ngoài các nhiệm vụ trên, Tòa án Công lý quốc tế còn có nhiệm vụ chung cùng với các cơ quan khác của Liên hợp quốc bảo vệ hoà bình, kiểm tra giám sát các nước thành viên Liên hợp quốc thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng Hiến chương Liên hợp quốc và theo các quyết định của các cơ quan của Liên hợp quốc.
1.2 Thành phần của Tòa án Công lý quốc tế:
Thành phần của Tòa án Công lý quốc tế gồm 15 thẩm phán, là công dân của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, do Đại hội đồng Liên hợp quốc và Hội đồng Bảo an bầu ra với nhiệm kì 9 năm và cứ 3 năm lại bầu lại 5 thẩm phán. Về nguyên tắc, trong cơ cấu của Tòa án Công lý quốc tế phải có đại diện của tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới và là những luật gia nổi tiếng, có uy tín trong lĩnh vực pháp luật quốc tế. Đã có công dân của các quốc gia: Anh, Pháp, Bỉ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Italia, Hungari, Xri Lanka, Mađagaxca, Angiêri, Guyana, Vênêzuêla, Xiêra Lêôn tham gia Tòa án Công lý quốc tế.
1.3 Chức năng của Tòa án Công lý quốc tế
Theo Điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là "thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ". Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế. Trong vòng năm thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ trụ, lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố. Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án...Tòa án cũng khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật pháp, các vấn đề luật pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan này, khuyến nghị các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng.
2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý quốc tế
Tòa án Công lý quốc tế ICJ đã và đang hoạt động với vai trò là một tòa án thường trực và là một cơ quan trực thuộc Liên hiệp quốc. Chính vì vậy, mâu thuẫn giữa các quốc gia là thành viên của Liên hiệp quốc đương nhiên sẽ có những quyền được đưa ra những tranh chấp của mình ra ICJ để giải quyết, ICJ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp pháp lí giữa các quốc gia mà Đại hội đồng, Hội đồng bảo an cũng như các cơ quan khác của Liên hiệp quốc yêu cầu … Tòa đã có những khởi đầu tốt đẹp qua các vụ Eo biển Corfou năm 1949, quyền tị nạn năm 1950 .Tuy nhiên chiến tranh lạnh đã kìm hãm sự hoạt động của ICJ và những năm 60-70 của thế kỉ XX niềm tin vào hoạt động cũng như số lượng các vụ tranh chấp và các tư vấn tại Tòa giảm sút một cách đáng kể. Tuy nhiên những năm tiếp theo của Tòa đã tiến hành điều chỉnh lại cơ chế làm việc và mở rộng tầm hoạt động của mình, từ sau những năm 1992 ICJ đã thực sự hồi phục. Tòa mở rộng việc áp dụng Tòa rút gọn (rút gọn chỉ còn 5 thẩm phán) và thời gian thủ tục tranh chấp cũng được rút gọn. Kể từ khi thành lập năm 1946 đến năm 2002 đã có 72 vụ được các nước đưa ra trước Toà án Quốc tế, 22 trường hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc tế. Hầu hết các trường hợp được Toà giải quyết, song kể từ năm 1981, đã có 4 trường hợp được chuyển cho các Uỷ ban đặc biệt giải quyết theo đề nghị của các bên liên quan, 11 trường hợp vẫn chưa được giải quyết . Tính đến tháng 6 năm 2010 thực tiễn hoạt động của tòa đã có 148 vụ tranh chấp được đưa ra trước Tòa, trong đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã được phân xử. Trong số 148 vụ tranh chấp mà Tòa có thẩm quyền giải quyết , 1/3 thông qua điều khoản thỏa thuận trong điều ước quốc tế và 1/3 qua cơ chế tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa và 1/3 theo cơ chế chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc. Trung bình tòa có 2 -> 2.5 vụ việc một năm riêng năm 1998 và 1999 mỗi năm có tới năm lần các nước tìm tới sự giúp đỡ của Tòa. Chỉ riêng ở Libi đã bốn lần xuất hiện trước Tòa trong các vụ việc: Thềm lục địa Tuynidi/Libi, Thềm lục địa Libi/manta, tranh chấp lãnh thổ Libi/Sat, Loccobi. Năm 1998, Indonexia và Malaixia cũng đồng ý đưa vụ tranh chấp chủ quyền trên các đảo Paulau Ligitan và Pulau Sipadan ra Tòa. Bỉ, Canada , Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia , Hà Lan, Bồ Đào Nha, Vương quốc Anh, Tây Ban Nha, Mỹ đã trở thành bên bị đơn trong vụ Nam Tư kiện lên Tòa án năm 1999 về tính hợp pháp của việc sử dụng vũ khí trong việc sử dụng vũ lực trong chiến dịch các nước phương Tây đã tấn công quân sự Nam Tư. Các phán quyết của Tòa thể hiện tính khách quan hơn trước.Trong vụ các hành động quân sự và bán quân sự tại Nicaraoa và chống lại Nicaraoa, Tòa án đã xử Nicaraoa thắng và yêu cầu Mỹ phải chấm dứt mọi hoạt động đe dọa và sử dụng vũ khí chống lại Nicaraoa, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế … Các trường hợp đưa ra giải quyết tại Toà án Quốc tế bao gồm nhiều lĩnh vực như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa Bỉ và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha năm 1960, giữa Buốckina Phaxô và Mali năm 1986, giữa Libi và Sát năm 1990), liên quan đến luật biển (trường hợp Anbani phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do thuỷ lôi trong vùng lãnh hải của mình gây ra cho tầu của Anh năm 1949, tranh chấp giữa Anh và Na uy về đánh cá), các cuộc tranh chấp liên quan đến nguyên tắc và luật lệ quốc tế trong việc phân định ranh giới thềm lục địa, trên biển và trên bộ (vụ giữa Libi và Manta năm 1985, Canađa và Mỹ năm 1984, Đan Mạch và Nauy năm 1993, giữa En Xanvađo và Honđurat năm 1992 ...), về bảo vệ ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa vụ của lực lượng uỷ thác tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên quan đến xung đột khu vực, việc thực hiện các công ước quốc tế của các nước .Các trường hợp liên quan đến quan hệ giữa Liên hợp quốc và các nước thành viên như việc phái viên của Liên hợp quốc bị sát hại, đóng góp của các nước vào ngân sách hoạt động gìn giữ hoà bình cũng được các bên liên quan đưa ra tại Toà án Công lý Quốc tế để nhận được ý kiến tham khảo. Các thành quả trên đã thể hiện sự hoạt động có hiệu quả cao của Tòa ICJ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia, trong việc bảo vệ và duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật Minh Khuê, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật Minh Khuê 1900.6162 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty Luật Minh Khuê