1. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền là gì?

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền là văn kiện xác nhận danh mục những quyền và tự do cơ bản của cá nhân được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết số 217A (IIl) ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại khoá họp lần thứ III của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ).

2. Sự ra đời của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền

Những hậu quả mà Cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai, do chủ nghĩa phát xít gây ra đã thức tỉnh nhân loại về một nhiệm vụ chung là bảo vệ hòa bình, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và quyền con người. Đây được xem là một nhu cầu cấp bách của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, ngay sau khi được thành lập (24-10-1945), với sự làm việc khẩn trương của các chuyên gia hàng đầu, các cơ quan có trách nhiệm, ngày 10-12-1948, “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua.

Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ra đời là nền tảng cho hai công ước cơ bản về quyền con người cùng được LHQ thông qua vào năm 1966 (ICCPR và ICESCR - Việt Nam đã gia nhập vào năm 1982), cũng như các văn kiện nhân quyền quốc tế trong nhiều lĩnh vực được thông qua sau đó. Nhiều văn kiện của các tổ chức liên chính phủ ở nhiều khu vực cũng chịu ảnh hưởng về nội dung và có sự dẫn chiếu đến bản Tuyên ngôn này.

Bản Tuyên ngôn lịch sử mang tính quốc tế rộng lớn đã được Ủy ban Nhân quyền tiến hành dự thảo từ năm 1946, sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II chưa đầy một năm. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của Tuyên ngôn với mục đích kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng đoàn kết, có trách nhiệm bảo vệ hòa bình nhân loại. Trên cơ sở Tuyên ngôn này, LHQ tiếp tục thông qua hai công ước quốc tế vào ngày 16-12-1966 nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người trên toàn thế giới cũng như thiết lập các cơ chế giám sát các quốc gia thành viên trong thực thi Công ước.

Qua quá trình phát triển, các văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền đã ra đời, đánh dấu về nhận thức và sự tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền. Đến năm 1950, Đại hội đồng LHQ thông qua Nghị quyết 423 (V), tại phiên họp thứ 317, chính thức kêu gọi mọi quốc gia thành viên và các tổ chức quan tâm kỷ niệm ngày 10-12 - Ngày Nhân quyền (Human Rights Day) - bằng các phương thức khác nhau.

3. Nội dung chính của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền

Tuyên ngôn gồm lời nói đầu và 30 điều. Trong “Lời nói đầu”, tuyên ngôn dẫn ra những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và những vấn đề cấp bách của cộng đồng quốc tế phải ứng phó, gồm: (1) “Tự do, công lý và hòa bình”. Tư tưởng này được xem là nền tảng của sự tồn tại nhân loại; (2) Nhu cầu về “quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và “thoát khỏi” sự khốn cùng”, được xem là nguyện vọng cao cả nhất của con người; (3) “Quyền con người phải được một chế độ pháp trị bảo đảm”; (4) Dựa vào Hiến chương LHQ, tuyên ngôn“tái xác nhận” và cam kết tôn trọng, thực thi trên toàn cầu những quyền và tự do căn bản ghi trong tuyên ngôn. Bản tuyên ngôn này “được xem như một tiêu chuẩn và mục tiêu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc hướng tới”.

Trong phần nội dung, 30 điều của tuyên ngôn quy định khá đầy đủ về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa.

Về các quyền dân sự, chính trị, tuyên ngôn quy định: Không ai “Bị phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến…” (Điều 2); mọi người đều có “Quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể (Điều 3); không ai bị “Tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm” (Điều 5); “Ai cũng có quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật ở bất cứ tại đâu” (Điều 6); “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 7); Mọi người đều có quyền được hưởng nguyên tắc “suy đoán là vô tội” (Điều 11); “Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín”… (Điều 12); “Ai cũng có quyền có quốc tịch” (Điều 15); “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo”; ai cũng có quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức… không kể biên giới quốc gia” (Điều 18); “Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình” (Điều 20); “Ai cũng có quyền tham gia chính quyền…” (Điều 21)…

Về các quyền kinh tế-xã hội và văn hóa, tuyên ngôn quy định: “Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình” (Điều 16); “Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác; không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán” (Điều 17); “Ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội” (Điều 22); “Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp” (Điều 23); “Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả lương” (Điều 24); “Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình bao gồm thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết;… Sản phụ, trẻ em được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” (Điều 25); “Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng; giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách… Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, khoan dung và hữu nghị giữa các quốc gia…” (Điều 26); “Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy” (Điều 27).

Về nghĩa vụ của mỗi người, tuyên ngôn quy định: “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng …; Trong khi thực hiện những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp quy định vì quyền tự do của người khác và những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng…” (Điều 29).

Cho đến nay, sau Hiến chương LHQ, tuyên ngôn được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân loại. Theo đó, ngày 10-12 hằng năm được tôn vinh là Ngày Nhân quyền thế giới. Những tư tưởng chính trị và những quy định về các quyền cơ bản của tuyên ngôn được xem là mục tiêu vươn tới của tất cả các quốc gia, dân tộc.

4. Ý nghĩa của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền

- Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng-chính trị-pháp lý hình thành cơ chế quyền con người (QCN) của LHQ bảo vệ QCN. Đó là cơ sở cho sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền (1948-2006), tiếp theo là Hội đồng Nhân quyền (từ năm 2006 đến nay). Trong thời kỳ đầu, Ủy ban Nhân quyền nằm trong Hội đồng Kinh tế-xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng to lớn của QCN, năm 2006, ĐHĐ LHQ quyết định nâng cao vai trò của tổ chức này lên thành Hội đồng Nhân quyền-cơ quan này trực thuộc ĐHĐ;

- Tuyên ngôn là cơ sở chính trị-pháp lý để LHQ xây dựng và ban hành các công ước quốc tế về QCN;

- Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng hình thành cơ chế về QCN ở các châu lục.

5. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam

Đối với Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân ta hoàn toàn không biết đến quyền con người, quyền công dân; nhiều lắm, người dân chỉ biết đến khái niệm quyền con người qua luận điệu tuyên truyền của bọn thực dân và tay sai. Chỉ đến khi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thành công, thì quyền công dân và quyền con người của nhân dân ta mới giành lại được. Điều đặc biệt là, bản Tuyên độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới đã kế thừa những giá trị tiến bộ của nhân loại, bao quát đầy đủ về dân chủ, quyền con người, quyền công dân, đồng thời có tính tương đồng, thống nhất với Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền con người. Ngay sau đó một năm, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nền cộng hòa - đã thiết lập và đảm bảo cho công dân thực hiện và hưởng thụ các quyền và tự do dân chủ.

Tuy nhiên, do điều kiện đất nước có chiến tranh, hậu quả nặng nề, kinh tế chưa phát triển, nên việc đảm bảo quyền con người còn hạn chế, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), nhất là bước vào thời kỳ đổi mới, với quan điểm: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển; gắn mỗi bước tăng trưởng kinh tế với đảm bảo an sinh xã hội, tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân, Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về nhân quyền do Liên hợp quốc ban hành và đảm bảo tốt trên thực tế.

Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, có thể nói, quyền con người đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cho đến nay, hầu hết các xã, cụm dân cư, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người đều có điện, trường học, trạm y tế, hệ thống giao thông phát triển; tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm. Đến hết năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng định hướng giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020, với mục tiêu giảm số hộ nghèo còn 4% - 5% vào năm 2020.

Trên lĩnh vực quyền dân sự và chính trị, kế thừa các Hiến pháp trước đó, Quốc hội (khóa XIII) đã xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013. Đây là văn kiện chính trị, pháp lý thể hiện đầy đủ về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Có thể nói, những quy định về quyền con người tại Hiến pháp năm 2013 hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có những quyền được xem là “nhạy cảm” cũng đã được đưa vào văn kiện này. Chẳng hạn, Điều 14, quy định: (1). “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. (2). Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Hoặc Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Ngoài ra, Quốc hội đã sửa và xây dựng nhiều đạo luật mới, như: Luật Báo chí (năm 2016); Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật An ninh mạng (năm 2018), v.v. Các quy định của những bộ luật này đều nhằm bảo đảm an ninh Quốc gia, trật tự công cộng và quyền con người.

Trong bối cảnh internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta đã bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí và đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin của nhân dân. Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu khá sớm so với nhiều quốc gia trong khu vực, từ ngày 01-12-1997. Theo tổ chức nghiên cứu về mạng xã hội quốc tế - Next Web, hiện nay, Việt Nam nằm trong “Top 10 quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới” với 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân Việt Nam ngày nay có thể đăng lên mạng và tải về các video/clip hoàn toàn không bị cấm đoán nếu không vi phạm pháp luật. Ngoài các đài phát thanh, truyền hình của quốc gia và các tỉnh, thành phố, hiện nay, Việt Nam có tới 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động. Người nước ngoài và người dân Việt Nam có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí trên thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters,… mà không có bất kỳ hạn chế nào.

Những thành tựu trên là rất cơ bản và to lớn, nhất là hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân. Nhờ đó, Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) và thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Đó là sự ghi nhận và đánh giá cao của quốc tế đối với Việt Nam trong việc bảo đảm, thực thi quyền con người.