1. Tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận là các tổ chức chính trị xã hội điển hình hoạt động theo cơ chế tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho thành viên của họ trước cơ quan pháp luật.
Theo Khoản 2 Điều 18 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015: "Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ cấp huyện trở lên có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình."
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự:
"....
2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa;
3. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình."
(Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự).
2. Quyền tham gia tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm nhân dân
Trong hoạt động tố tụng, Mặt trận tổ quốc Việt Nam còn được quyền tham gia việc tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm nhân dân.
Theo Điều 20 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015 có quy định:
"Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử đại diện tham gia Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp theo quy định của pháp luật.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì lựa chọn, giới thiệu người đủ điều kiện, tiêu chuẩn để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp luật."
3. Về công tác phối hợp tuyển chọn Thẩm phán
Trước năm 2015, theo quy định pháp luật, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương; Ủy ban MTTQ cấp tỉnh là thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh, cấp huyện. Để góp phần làm cho việc tuyển chọn Thẩm phán được chính xác và chất lượng, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã hướng dẫn Ủy ban MTTQ các địa phương tổ chức lấy ý kiến nhân dân nơi cư trú để nhận xét người được giới thiệu tuyển chọn làm Thẩm phán. Ý kiến nhận xét của nhân dân được đại diện Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ủy ban MTTQ cấp tỉnh tổng hợp phản ánh trong các Hội đồng tuyển chọn để cân nhắc, xem xét trước khi đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm làm Thẩm phán. Mỗi năm Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham gia tuyển chọn được hàng trăm người đủ tiêu chuẩn, điều kiện để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét bổ nhiệm là Thẩm phán.
Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014, đại diện Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia. Thực hiện nhiệm vụ này, đại diện Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan trong Hội đồng xem xét, tuyển chọn những người đủ tiêu chuẩn để trình Quốc hội phê chuẩn làm Thẩm phán TAND tối cao và những người đủ tiêu chuẩn để đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp. Tại Quyết định số 1310/QĐ-CTN ngày 03/7/2015 của Chủ tịch nước, Chủ tịch nước đã bổ nhiệm 12 người làm Thẩm phán TAND tối cao và 63 người làm Thẩm phán cao cấp. Hiện nay, mỗi năm Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán quốc gia tuyển chọn được hàng chục người đủ tiêu chuẩn và điều kiện để trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, bổ nhiệm lại làm Thẩm phán TAND cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện.
4. Về công tác phối hợp thực hiện chế định Hội thẩm nhân dân
Chế định Hội thẩm nhân dân (HTND) là một hình thức giám sát trực tiếp tại phiên tòa của nhân dân đối với những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ phối hợp giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và TAND tối cao trong việc thực hiện chế định HTND chủ yếu là việc ban hành các văn bản hướng dẫn Ủy ban MTTQ các địa phương phối hợp với TAND cùng cấp hiệp thương lựa chọn người đủ tiêu chuẩn và điều kiện để giới thiệu cho Hội đồng nhân dân bầu làm HTND và giúp đỡ HTND thực hiện nhiệm vụ.
Công tác giới thiệu HTND đã thực hiện thành nề nếp trong suốt nhiều năm qua. Mỗi nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện trong cả nước đã phối hợp với TAND cùng cấp hiệp thương giới thiệu để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hàng ngàn người làm HTND. Chất lượng HTND ngày càng nâng cao.
Thực hiện quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 về “Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ và Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm”, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam được UBTVQH giao chủ trì soạn thảo Quy chế này. Thực hiện nhiệm vụ này, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tiến hành thành lập ban soạn thảo, tổ biên tập xây dựng “Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm” với sự tham gia của đại diện TAND tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng… Việc soạn thảo Quy chế được tiến hành theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL để đưa ra UBTVQH xem xét quyết định. Ngày 13/6/2016, UBTVQH đã ra nghị quyết ban hành “Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm”. Quy chế này về cơ bản đã giải quyết được những khó khăn tồn tại trong tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm. Đây cũng có thể coi là kết quả cụ thể, có hiệu quả nhất về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và TAND tối cao sau khi có Luật Tổ chức TAND năm 2014 và Luật MTTQ Việt Nam năm 2015.
5. Về hoạt động giám sát
Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với các cơ quan tư pháp, người tiến hành tố tụng nói chung, Thẩm phán, HTND nói riêng, đã được quy định tại nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức TAND và Luật MTTQ Việt Nam…
Hoạt động giám sát của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đối với đội ngũ Thẩm phán được thực hiện vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Giám sát trực tiếp được hiểu là việc đại diện MTTQ Việt Nam tham gia trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, trực tiếp nghiên cứu hồ sơ của người được giới thiệu tuyển chọn, trực tiếp tham dự các phiên họp của hội đồng tuyển chọn, trực tiếp biểu quyết từng trường hợp được giới thiệu tuyển chọn… Còn gián tiếp có thể hiểu là việc thông qua phản ánh của đội ngũ HTND. Trong quá trình tham gia các phiên tòa các HTND sẽ có những thông tin trực tiếp về năng lực chuyên môn và các vấn đề khác của Thẩm phán để khi cần thiết có thể trao đổi, phản ánh với Ủy ban MTTQ cùng cấp. Một hình thức giám sát gián tiếp nữa là thông qua việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân, nhất là nhân dân nơi cư trú của người Thẩm phán, chủ yếu là về đạo đức, tư cách, việc chấp hành các quy định của pháp luật, quy định của địa phương; mối quan hệ của Thẩm phán và gia đình với nhân dân và chính quyền sở tại. Với cách làm như trên, những vấn đề về năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức của Thẩm phán cơ bản là được MTTQ Việt Nam nắm rõ. Việc nắm bắt được tình hình, đặc điểm của đội ngũ này là cơ sở để MTTQ Việt Nam tham gia vào công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán TAND các cấp.
6. Sự tham gia tố tụng của Công đoàn
Theo Hướng dẫn của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về Công đoàn khởi kiện, tham gia tố tụng dân sự giải quyết các vụ án tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể thì:
Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện các vụ án lao động khi được người lao động ủy quyền; có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động; có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp về quyền công đoàn, về kinh phí công đoàn, về bảo hiểm xã hội, về an toàn vệ sinh lao động và các tranh chấp lao động khác hoặc ủy quyền khởi kiện cho Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW và tương đương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn.
Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tập thể người lao động tại doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức Công đoàn cơ sở và được người lao động, tập thể lao động ủy quyền; có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp về quyền công đoàn, về kinh phí công đoàn, về bảo hiểm xã hội, về an toàn vệ sinh lao động và các tranh chấp lao động khác hoặc ủy quyền khởi kiện cho Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW và tương đương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn.
Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW và tương đương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp về quyền công đoàn, về kinh phí công đoàn, về bảo hiểm xã hội, về an toàn vệ sinh lao động và các tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể khác, khi được người lao động, tập thể người lao động ủy quyền.
Ngoài ra, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, v.v... là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho thành viên của tổ chức mình trong trường hợp thành viên đó vi phạm pháp luật; Đoàn luật sư, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mọi công dân trong xã hội theo yêu cầu của họ hoặc theo sự chỉ định của Tòa án theo luật định v.v...
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)