Mục lục bài viết
1. Vai trò của thương mại Nhật Bản
Nhật Bản là nước nghèo về nguyên liệu và năng lượng. Trong 8 loại nguyên liệu, năng lượng quan trọng nhất, quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế, thì Nhật Bản phải nhập khẩu tới 99,7% dầu mỏ, 100% thuỷ ngân và nhôm, 90% quặng sắt, 86% than, 82% đồng, 62% kẽm, 57% chì. Với việc nhập khẩu này, Nhật Bản trở thành nước nhập khẩu nguyên liệu lớn nhất thế giới cả về quy mô và cơ cấu, chủng loại. Để bảo đảm nguồn cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng ổn định, an toàn trong điều kiện thế giới đầy biến động, các tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản đã tìm mọi cách để chi phối và đa dạng hoá các nguồn cung cấp tài nguyên, năng lượng. Thông qua hoạt động trao đổi thương mại và đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn tài chính lớn, Nhật Bản đã kiểm soát được 100% quặng sắt của Malaysia, 80% nguồn cung cấp gỗ và đồng của Philippines, 50% nguồn dầu thô của Indonesia, 30% cao su của Thái Lan.
Nhật Bản không ngừng tìm cách mở rộng thị trường ra nước ngoài. Hoạt động thương mại và những chính sách liên quan đến thương mại của Nhật Bản vẫn luôn là trọng tâm của các cuộc cải cách cơ cấu của Nhật Bản. Đặc biệt, thương mại giữ vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Tỉ trọng xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Nhật Bản tăng tương ứng tới 16% và 11% năm 2007. Mức tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu phán ánh sự đóng góp tích cực của nhu cầu bên ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, điều này một phần do cơ chế mở cửa của hệ thống thương mại đa phương. Năm 2007, thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng đã phản ánh mức chênh lệch giữa tiết kiệm quốc gia và tổng đầu tư nội địa. Năm 2008. dự trữ ngoại hối của Nhật Bản tăng lên 997 tỉ đôla (so với mức 879 tỉ đôla năm 2006), tương đương với 21 tháng nhập khẩu của Nhật Bản.
Chính sách thương mại của Nhật Bản năm 2007 đề xuất một số biện pháp nhằm tự do hóa hơn nữa cơ chế thương mại và đầu tư của Nhật Bản. Tuy nhiên, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tháng 9 năm 2008, Nhật Bản không đưa ra những biện pháp thương mại mới để bảo hộ thị trường nội địa.
Tự do hoá thương mại là việc cần phải làm đối với tất cả các nước trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại cần phải được thực hiện theo những bước đi phù hợp. Nếu không chú trọng đến trình tự tự do hoá, Nhật Bản có thể phải gánh chịu những bài học đắt giá. Việc xác định lộ trình tự do hoá thương mại cần dựa vào đặc điểm, điều kiện và nội lực trong nước.
2. Chính sách thuế quan Nhật Bản
Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho chính phủ, ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non trẻ trong nước.
Thuế quan là công cụ chính trong chính sách thương mại Nhật Bản. Tuy nhiên, đa số hàng nhập khẩu của Nhật Bản được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế quan thấp. Năm 2008, tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN) giảm xuống còn 6,1% (từ mức 6,5% năm 2006). Gần 99% dòng thuế quan có giới hạn và hầu hết tỉ lệ thuế quan áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc MFN đều xấp xỉ với tỉ lệ MFN cho phép. Đồng thời, việc không đánh thuế theo giá hàng (non ad valorem duties) được coi là đặc điểm quan trọng trong chính sách thuế quan của Nhật Bản, đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp. Mức thuế này chiếm khoảng 6,7% của tất cả các dòng thuế và được thể hiện rõ trong danh mục thuế quan của Nhật Bản.
Tỉ lệ thuế quan ưu đãi được áp dụng đối với 141 nước đang phát triển và 14 vùng lãnh thổ thuộc Hệ thống ưu đãi chung GSP (General System of Preference), trong đó năm 2007 chính phủ Nhật Bản đã mở rộng thêm danh mục các hàng hóa được hưởng mức trợ cấp ưu đãi tới 49 quốc gia kém phát triển, từ mức 86% tăng lên 98% đối với tất cả các hạng mục thuế quan. Các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ GSP Nhật Bản là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippin và Việt Nam. Cơ chế GSP không bao hàm nhiều sản phẩm nông nghiệp và một số sản phẩm công nghiệp khác.
Tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng đối với các nước trong hệ thống GPS là 4,9% và đối với các nước kém phát triển là 0,5% (giảm từ 3,3% năm 2006). Trong Hiệp định thương mại tự do song phương, Nhật Bản cũng dành khoản trợ cấp ưu đãi đối với hàng hóa nhập khẩu từ Singapore, Mexico, Malaysia, Chile, Thái Lan, Indonesia và Brunei. Tỉ lệ thuế quan trung bình trong các Hiệp định này dao động từ 3,3% (đối với Malaysia) và 3,9% (đối với Brunei).
Biểu thuế quan Nhật Bản được chia thành 21 phần theo chủng loại sản phẩm và đưa ra danh sách những mức thuế áp dụng đối với mỗi sản phẩm. Tuy nhiên, mức thuế được áp dụng trong thực tế có sự khác nhau, thậm chí đối với cùng một sản phẩm, tuỳ thuộc vào nước xuất khẩu cụ thể.
Nhật Bản vẫn duy trì ổn định mức kiểm soát xuất khẩu nhằm bảo đảm an ninh quốc gia và nhu cầu tiêu dùng trong nước một cách thích hợp đối với nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng cơ bản khác. Hơn nữa, để không phải kìm hãm, cản trở xuất khẩu, kế hoạch khấu trừ, chiết khấu được áp dụng để bồi thường cho thuế quan nhập khẩu đối với những hàng hóa nhập dùng để sản xuất phục vụ cho mục đích xuất khẩu. Ngoài ra, các khoản bảo hiểm, bảo đảm tài chính xuất khẩu cũng có thể được áp dụng. Chính phủ Nhật Bản hiện nay cũng đang khuyến khích xuất khẩu hàng nông nghiệp, chủ yếu bằng cách cung cấp thông tin cho người tiêu dùng ở nước ngoài.
Thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan. Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong biểu. Qua tám vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT, đặc biệt là sau vòng Uruguay, thuế hàng công nghiệp bình quân của Nhật Bản được giảm xuống 3,8% và đồng ý cắt giảm 36% mức thuế hàng công nghiệp. Lợi nhuận và áp lực cạnh tranh đã thúc đẩy các nhà đầu tư sử dụng các công nghệ không thân thiện với môi trường để giảm thiểu tối đa chi phí sản xuất...Để hạn chế điều này, kinh nghiệm của nhiều nước là tiến hành đánh thuế môi trường. Chẳng hạn đánh thuế tiêu thụ đặc biệt về năng lượng để hạn chế sử dụng thái quá các nguồn năng lượng, đồng thời có nguồn thu để thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường. Nguồn thu từ thuế môi trường sẽ không nhỏ nếu biết tận thu và đây chính là một nguồn lực để giải quyết từng bước vấn đề môi trường.
3. Chính sách phi thuế quan Nhật Bản
Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp nằm ngoài thuế quan, có liên quan hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến sự luân chuyển hàng hoá giữa các nước. Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý khoa học hoặc bình đẳng. Hiện nay, nhiều biện pháp phi thuế quan đã được áp dụng một cách tinh vi nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Những biện pháp phi thuế quan được pháp luật thương mại quốc tế thừa nhận bao gồm: cấm xuất nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu về nhãn mác hàng hoá, bao bì đóng gói, yêu cầu về hàm lượng nguyên vật liệu tái chế, yêu cầu về phương pháp và quy trình sản xuất, kiểm dịch, phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan, xuất xứ hàng hoá...
Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Thí dụ như quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu.
Trợ cấp là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu hết các nước nhằm đạt các mục tiêu của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị... Trợ cấp là một khoản đóng góp về tài chính do Chính phủ hoặc một tổ chức Nhà nước cung cấp, hoặc là một khoản hỗ trợ thu nhập, hỗ trợ giá mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp.
Bản cũng áp dụng một số biện pháp phi thuế quan tương tự đối với các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các mặt hàng thuỷ sản. Những biện pháp hiện đang được triển khai đó là cấm nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng nhập khẩu một số mặt hàng (ví dụ như một số loại thủy sản cá tôm). Thêm nữa, việc nhập khẩu một vài loại hàng hóa phụ thuộc vào yêu cầu giấy phép để đảm bảo an ninh quốc gia, bảo đảm sức khỏe, cuộc sống người tiêu dùng hoặc bảo tồn cuộc sống động, thực vật, cây cối và môi trường thiên nhiên. Những biện pháp cấm nhập khẩu của Nhật Bản hiện đang được áp dụng cũng phù hợp với những giải pháp của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ.
Nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời bảo vệ các ngành sản xuất và chế biến trong nước, Nhật Bản áp dụng Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Chống gây nhiễm và kiểm soát các loại dịch bệnh, Luật Ngoại thương và Ngoại hối, Luật Thương mại với những quy định chặt chẽ, chỉ cho phép nhập vào Nhật Bản những loại thực phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm không gây hại cho sức khỏe của con người.
4. Sự chuyển đổi chính sách thương mại Nhật Bản
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, chủ nghĩa khu vực phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất, Hiệp định thương mại tự do ngày càng trở thành xu hướng phổ biến đến mức dù muốn hay không các nước đều bị cuốn vào cuộc chơi. Nhật Bản là quốc gia thu được nhiều lợi ích nhất nhờ sự xuất hiện của môi trường thương mại mở toàn cầu. Vì vậy, Nhật Bản luôn cố gắng tập trung mọi nỗ lực mở rộng hệ thống thương mại thông qua việc theo đuổi các Hiệp định thương mại đa phương. Tuy nhiên, do sự thay đổi của thương mại thế giới, cũng như do những khó khăn của quá trình thỏa thuận các Hiệp định mậu dịch buộc Nhật Bản phải điều chỉnh chiến lược buôn bán của mình theo hướng tăng cường ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước trong khu vực, mà theo Nhật Bản, chính điều đó sẽ rất có lợi cho việc thúc đẩy ký kết các Hiệp định đa phương của WTO. Theo quan điểm của Nhật Bản, các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực bổ sung cho tự do hóa thương mại ở cấp độ đa phương. Tính đến tháng 2/2009, Nhật Bản đã ký kết được 11 FTA với các quốc gia Châu Á, Châu Âu... Chính sách tự do hóa thương mại của Nhật Bản bắt đầu thay đổi từ đầu những năm 2000 dựa trên những lý do sau:
Thứ nhất, nếu như Nhật Bản vẫn đơn phương theo đuổi chính sách thương mại đa phương, Nhật Bản sẽ bị cô đơn và gặp nhiều bất lợi. Trong khi đó, chỉ có Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc là những nước lớn ở Đông Bắc Á vẫn chưa gia nhập vào bất cứ Hiệp định thương mại tự do nào với các nước khác. Trong khi đó hầu hết các đối tác thương mại của Nhật Bản đã ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Điều khẳng định là, khi hai quốc gia đã ký kết FTA với nhau thì chắc chắn mối quan hệ thương mại của các nước này sẽ trở nên gần gũi và thân thiết với nhau hơn.
Thứ hai, Nhật Bản có thể thực hiện những cuộc cải cách cơ cấu triệt để thông qua việc các cam kết chắc chắn về thuế được thực hiện bởi Hiệp định thương mại tự do FTA. Đây được coi là sức ép mạnh để khuyến khích cải cách cơ cấu. Ví dụ, ngành công nghiệp rượu của Canada rất yếu trước khi Canada và Mỹ ký hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Khi có sự tham gia của bên ngoài thông qua FTA, ngành công nghiệp rượu của Canada trở nên cạnh tranh hơn, sản xuất rượu gạo có chất lượng cao hơn.
Thứ ba, các hiệp định thương mại tự do FTA thúc đẩy các cuộc cải cách thương mại đạt triển vọng nhanh hơn Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Các thành viên của Tổ chức thương mại thế giới khó có thể có sự nhất trí cao bởi mức độ quan tâm và lợi ích rất khác biệt. Nhưng trong trường hợp FTA giữa hai hay nhiều nước, để đạt được sự nhất trí sẽ gặp ít khó khăn hơn.
Thứ tư, các công ty Nhật Bản thực sự cảm thấy thua thiệt do FTA của các nền kinh tế khác. Ví dụ, các công ty của Mỹ có thể xuất khẩu hàng hóa đến Mêxicô với thuế quan tự do theo qui định của Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hơn nữa, các công ty của Châu Âu cũng có thể làm như vậy nhờ FTA giữa EU và Mêxicô.
Thứ năm, quyết định của Trung Quốc trong việc đàm phán FTA với ASEAN năm 2001 cũng là sự kiện tranh luận, tạo áp lực thêm cho Nhật Bản điều chỉnh chính sách thương mại, hướng Nhật Bản quan tâm hơn đến FTA nhằm tránh thua thiệt về lợi ích kinh tế cũng như vai trò ảnh hưởng trong khu vực Đông Á.
Thứ sáu, việc theo đuổi chính sách tự do hóa thương mại theo hai gọng kìm của Mỹ (vừa tăng cường hợp tác kinh tế khu vực và thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương) cũng tạo động lực mạnh cho sự chuyển đổi chính sách thương mại Nhật Bản. Mỹ không những đã thành lập Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cách hàng chục năm, mà đã ký Hiệp định mậu dịch tự do với 5 nước Trung Mỹ (kể cả Costa Rica và En Xanvado) và cả Hiệp định thương mại tự do với Châu Á (Singapore, Thái Lan…). EU cũng không đứng ngoài cuộc. Tính đến nay, trên thế giới đã có tới vài trăm FTA được ký kết. Riêng ở Châu Á, số FTA được ký giữa các nước Châu Á với nhau đã tăng từ mức 3 thỏa thuận (năm 2000) lên mức 56 thỏa thuận (tính đến cuối tháng 8-2009), đáng kể phải nói đến FTA giữa ASEAN với Trung Quốc, ASEAN với Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản... đã biến ASEAN trở thành trung tâm của một môi trường tự do thương mại rộng lớn nhất trong lịch sử thương mại của khu vực.
Trong bối cảnh trên, Nhật Bản nếu không chuyển đối chính sách thương mại thì sẽ bị tụt hậu so với những nước khác trong các cuộc thương lượng mua bán hàng hóa, đồng thời có nguy cơ bị thua thiệt trong các cuộc thương lượng mậu dịch ở WTO do Nhật Bản phản đối tự do hóa mậu dịch hàng nông sản.
5. Sách trắng Kinh tế 2020 của Nhật Bản
Ngày 07/7/2020, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Sách Trắng về Kinh tế và Thương mại Nhật Bản năm 2020, nhấn mạnh đại dịch COVID-19 gây thiệt hại to lớn đối với kinh tế Nhật Bản và toàn thế giới. Sách trắng khuyến cáo cần thiết phải thay đổi hệ thống chuỗi cung ứng.
Sách trắng về Kinh tế và Thương mại của Nhật Bản được công bố hàng năm kể từ năm 1949. Năm nay Sách trắng được đánh giá là rất quan trọng do phản ánh những chính sách phát triển kinh tế, thương mại giai đoạn hậu COVID-19 của Chính phủ Nhật Bản.
Theo báo Kyodo chỉ ra 5 điểm chính của sách trắng kinh tế, thương mại Nhật Bản năm 2020 là: Từ bài học COVID-19, Nhật Bản cần thiết phải thay đổi để ổn định nguồn cung ngay cả khi có khủng hoảng; cần sớm bàn luận về chính sách mạng lưới cung ứng trong cả điều kiện bình thường và cả tình trạng khẩn cấp; xây dựng hệ thống cung ứng vật tư thiết yếu như khẩu trang, bảo hộ y tế, thuốc men không phụ thuộc vào tình hình quốc tế; không để xảy ra tình trạng hạn chế xuất khẩu nhằm ưu tiên cho quốc gia mình chống dịch, cần giải pháp mang tính toàn cầu; thúc đẩy số hóa kinh tế - xã hội.
Theo báo điện tử NHK, Chính phủ Nhật Bản muốn đa dạng hóa nhà cung cấp đối với từng loại nguyên liệu, xây dựng một mạng lưới cung ứng linh hoạt. Tờ báo này phân tích, máy móc và linh kiện điện tử, các công ty Nhật Bản có mức độ phụ thuộc cao vào Trung Quốc và đã xảy ra tình trạng bị gián đoạn khi ngưng trệ sản xuất tại Trung Quốc do dịch COVID-19.
Thời báo kinh tế SankeiBiz có bài viết với nhan đề, "Sách trắng kinh tế thương mại kêu gọi cải cách mang lưới cung ứng từ bài học COVID-19 và tăng cường hợp tác quốc tế". Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Kaziyama Hiroshi báo cáo trước Nội các Nhật Bản về sách trắng kinh tế, thương mại cho rằng, đã xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ, ưu tiên cho quốc gia mình trước dịch bệnh COVID-9. Theo đó, ông kêu gọi tầm quan trọng của hợp tác quốc tế.
Một số chuyên gia khuyến nghị, kinh tế số hay xây dựng môi trường làm việc từ xa có thể giúp Nhật Bản tận dụng nguồn lao động chất lượng cao từ nước ngoài mà không cần họ phải đến Nhật Bản.