Mục lục bài viết
1. Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng với đối tượng nào?
Theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt cải tạo không giam giữ sẽ chỉ áp dụng đối với những loại tội phạm sau đây:
- Người phạm tội ít nghiêm trọng: tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm
- Người phạm tội nghiêm trọng: tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù
Bên cạnh đó, người phạm tội còn phải đáp ứng điều kiện là người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội
Như vậy có thể kết luận rằng hình phạt cải tạo không giam giữ sẽ áp dụng cho những đối tượng phạm tội thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và phải có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng.
2. Thời gian áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Thời gian áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng cho đến 03 năm. Nếu như người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Theo đó thì cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam sẽ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ
Nếu như trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ mà người bị áp dụng hình phạt bị mất việc làm hoặc không có việc làm thì sẽ phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo thời gian như sau: "Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần."
Lưu ý là với người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng sẽ không bị áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng.
3. Lưu ý khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
- Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, cho nên Toà án còn có thể quyết định thêm hình phạt bổ sung mà Bộ luật hình sự 2015 có quy định đối với tội đó;
- Việc khấu trừ thu nhập của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Toà án cần căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập thực tế và tình hình tài sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định có khấu trừ thu nhập của họ hay không. Nếu có thì mức độ cụ thể là bao nhiêu.
- Nếu người bị phạt cải tạo không giam giữ là người chưa thành niên thì không khấu trừ thu nhập của người đó;
- Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng với cả quân nhân phạm tội hay nói cách khác việc thay thế hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội bằng hình phạt cải tạo không giam giữ là một sự điều chỉnh hợp lý trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm tạo điều kiện để người bị kết án được học tập, tu dưỡng và cải tạo tại chính tập thể nơi người phạm tội phục vụ, công tác.
Cải tạo không giam giữ và án treo có nhiều nét tương đồng, tuy nhiên không đồng nhất. Mặc dù, giống nhau về bản chất trong việc giáo dục và quản lý người bị kết án nhưng thực tiễn áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ” hay áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng “Án treo” đối với người phạm tội còn có những bất cập nhất định.
Vì giữa “Án treo” và “Cải tạo không giam giữ” đều giống nhau là: Người thụ án không phải cách ly khỏi xã hội mà họ được chung sống với gia đình như những người khác dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc cư trú. Tuy nhiên, “Án treo” là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, quy định về thời gian thử thách - trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo phạm tội mới thì phải chuyển hình phạt tù giam nên nặng hơn hình phạt “Cải tạo không giam giữ”, vì vậy thiết nghĩ cần phải đưa ra những điều kiện để được áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ” khắt khe hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ít hơn so với “Án treo”.
4. Vướng mắc trong tổng hợp hình phạt cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là một trong các hình phạt đối với người phạm tội được quy định tại Điều 32 và Điều 36 Bộ luật hình sự 2015. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã (sau đây gọi tắt là UBND xã) nơi người đó cư trú giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, người bị kết án, phải chịu sự giám sát, giáo dục của UBND xã.
Thực tiễn, người trong thời gian đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ lại phạm tội mới. Người phạm tội mới, bị Tòa án phạt tù có thời hạn. Hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung. Nhưng khi tổng hợp hình phạt theo điểm b khoản 1 Điều 55 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể:
- Thời hạn cải tạo không giam giữ người đó chưa chấp hành được chuyển đổi thành tù tính từ ngày người đó phạm tội mới. Bởi vì, trong thời hạn cải tạo không giam giữ, người đó phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Nên người đó không còn sự giám sát, giáo dục của UBND xã nữa, nên đã đương nhiên chấm dứt việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
- Thời hạn cải tạo không giam giữ người đó chưa chấp hành được chuyển đổi thành tù tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bởi vì, trong thời hạn cải tạo không giam giữ, người đó phạm tội mới, nhưng họ vẫn chấp hành các chế tài (khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng) của hình phạt cải tạo không giam giữ, chịu sự giám sát, giáo dục của UBND xã, nên chưa chấm dứt việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Khi tuyên án sơ thẩm thì người đó mới bị kết tội, đây mới được coi là mốc cố định để tổng hợp hình phạt.
- Thời hạn cải tạo không giam giữ người đó chưa chấp hành được chuyển đổi thành tù tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc từ khi họ bị tạm giam hay bỏ trốn, cũng là quan điểm của người viết. Bởi vì, kể từ khi người đó phạm tội mới, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam hoặc bỏ trốn, hay đến ngày xét xử sơ thẩm và sau khi xét xử sơ thẩm họ vẫn chịu sự giám sát, giáo dục của UBND xã, chưa chấm dứt việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Chỉ khi bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm có hiệu lực pháp luật họ mới phải chấp hành hình phạt tù, hoặc từ khi họ bị tạm giam hay bỏ trốn, tại các thời điểm này họ không còn chịu sự giám sát, giáo dục của UBND xã, đương nhiên chấm dứt việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Mặt khác, trong thời gian chấp hành án hình phạt cải tạo không giam giữ, hiện nay chưa có quy định hay văn bản nào hướng dẫn cho các quan điểm đã nêu. Do vậy, theo hướng có lợi cho bị cáo thì cần tổng hợp hình phạt tại thời điểm bị cáo đã chấm dứt hoàn toàn việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Quý khách có thể tham khảo thêm bài viết sau đây:
- Bị tuyên án cải tạo không giam giữ có được kết hôn?
- Bị tù treo (cải tạo không giam giữ) có bị mất quyền công dân không?
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Minh Khuê, khi có thắc mắc về quy định pháp luật, hãy liên hệ ngay đến hotline tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến, gọi ngay: 1900.6162 hoặc gửi thư yêu cầu tư vấn đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn.