1.Khái niệm bị can ?Khái niệm khỏi tố bị can?

>> Xem thêm: Mớm cung là gì ? Quy định của pháp luật về hành vi mớm cung

Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Một người hoặc pháp nhân sẽ tham gia tố tụng hình sự với tư cách là bị can khi đối với họ đã có quyết định khởi tố về hình sự.

Khởi tố bị can là hành vi tố tụng có ý nghĩa quan trọng, theo đó cơ quan có thẩm quyền, thường là cơ quan điều tra, sau khi tiến hành một số hoạt động điều tra đã có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội.

Quyết định khởi tố bị can là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp theo hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như hỏi cung bị can, tạm giam bị can để điều tra...

2. Cơ quan điều tra có quyền chụp ảnh bị can không ?

>> Xem thêm: Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”

Thưa luật sư, em tôi có phạm phải tội giết người sau quá trình điều tra đã có quyết định khởi tố bị can. Mà bên cơ quan điều tra đã chụp ảnh em tôi như thế là đúng hay sai ?

Luật sự trả lời:

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Minh Khuê. Câu hỏi của bạn được chúng tôi biên tập và trả lời như sau :

Căn cứ theo khoản 5 điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định

Điều 179. Khởi tố bị can

1. Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.

2. Quyết định khởi tố bị can ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, chỗ ở, nghề nghiệp của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm.

Trường hợp bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh và điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.

3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.

Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.

4. Trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra nếu Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.

5. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can.

Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án.

Việc giao, nhận các quyết định nêu trên được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

3.Phân biệt khởi tố vụ án và khởi tố bị can

>> Xem thêm: Chiến thuật hỏi cung bị can là gì ? Các bước tiến hành việc hỏi cung bị can

Khởi tố vụ án

Khởi tố bị can

Đối tượng của quyết định khởi tố

Khởi tố về HÀNH VI có dấu hiệu phạm tội.

Khởi tố NGƯỜI hoặc PHÁP NHÂN có dấu hiệu phạm tội.

Căn cứ khởi tố

Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

Tố giác của cá nhân;

Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;

Người phạm tội tự thú.

(Điều 143 BLTTHS 2015)

Sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra vụ án. Từ đó, nếu có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị bị can. Quyết định khởi tố bị can phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp với cơ quan điều tra.

(Điều 179 BLTTHS 2015)

Thẩm quyền ra quyết định khởi tố

Có 04 cơ quan:

- Cơ quan điều tra.

- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Viện kiểm sát;

- Hội đồng xét xử.

Có 03 cơ quan:

- Cơ quan điều tra.

- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Viện kiểm sát.

Các giai đoạn ra quyết định khởi tố

Có 04 giai đoạn có thể khởi tố:

- Giai đoạn khởi tố;

- Giai đoạn điều tra;

- Giai đoạn truy tố;

- Giai đoạn xét xử.

(Điều 153 BLTTHS 2015)

Có 02 giai đoạn có thể khởi tố:

- Giai đoạn điều tra;

- Giai đoạn truy tố.

(Điều 179 BLTTHS 2015)

Kết thúc khởi tố

Thời điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án được tính từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (trong trường hợp xác định có dấu hiệu tội phạm), hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự (khi xác định không có dấu hiệu tội phạm).

Khởi tố bị can không phải là giai đoạn tố tụng mà chỉ là hành vi tố tụng tại giai đoạn điều tra của người có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can khi đã xác định được một người cụ thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự, cần phải tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Mối quan hệ

Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải có trước quyết định khởi tố bị can. (vì sau khi khởi tố vụ án bước vào giai đoạn điều tra thì cơ quan có thẩm quyền mới điều tra căn cứ xác định 04 yếu tố cấu thành tội phạm để có căn cứ khởi tố bị can).

Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành hai quyết định này cùng một thời điểm ngay khi xác định tại sự việc, sự kiện phạm tội có dấu hiệu tội phạm thì cũng đồng thời xác định được ngay người thực hiện hành vi phạm tội. (như trường hợp bắt tội phạm quả tang)

4.Quy định về căn cứ khởi tố bị can là pháp nhân thương mại

>> Xem thêm: Hỏi cung bị can là gì ? Phân tích quy định pháp luật về hỏi cung bị can ?

Khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc xác định pháp nhân thương mại thược hiện hành vi phạm tội có thể được thực hiện dựa trên một trong những căn cứ sau:

  • Tố giác của cá nhân;
  • Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
  • Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
  • Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
  • Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
  • Người phạm tội tự thú.

5. Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định

>> Xem thêm: Lý luận về động cơ phạm tội trong vụ án hình sự ?

Căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can là vấn đề quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Việc nhận thức sâu sắc căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can là tiền đề để triển khai và áp dụng có hiệu quả trong thực tế chế định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trao đổi, bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bi can theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

1. Khởi tố vụ án là giai đoạn mở đầu của TTHS trong đó các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định kiểm tra thông tin, tài liệu thu được, xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Khởi tố bị can là hoạt động áp dụng pháp luật TTHS của cơ quan có thẩm quyền trong đó xác định một người, pháp nhânđã thực hiện tội phạm để bắt đầu tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục của TTHS.

Căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can có vai trò quan trọng trong giai đoạn khởi tố. Việc tiến hành khởi tố chỉ được khởi động nếu xác định có căn cứ khởi tố. Việc khởi tố đúng pháp luật hay không phụ thuộc vào căn cứ khởi tố.

2. Căn cứ khởi tố vụ án được quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Từ quy định của điều luật trên có thể khẳng định về mặt pháp lý, căn cứ khởi tố vụ án hình sự đã được xác định là “dấu hiệu của tội phạm” nghĩa là chỉ được khởi tố khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm.

Mặc dù đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhưng nhận thức và giải thích về căn cứ khởi tố vụ án hình sự hiện đang có nhiều ý kiến khác nhau: Có được những thông tin thực tế khác quan về hành vi phạm tội, có sự việc xảy ra và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm; căn cứ để xác định dấu hiệu của tội phạm; có được những thông tin thực tế khách quan về hành vi phạm tội.

Theo tác giả, các nhà nghiên cứu đều xuất phát từ lý luận triết học về cặp phạm trù nội dung – hình thức để phân tích, lý giải căn cứ khởi tố, nhưng do đặt trong mối quan hệ khác nhau và phương diện tiếp cận khác nhau nên dẫn đến sự giải thích khác nhau. Trên cơ sở lý luận chứng cứ và đặt căn cứ khởi tố trong mối quan hệ với nguồn tài liệu chứa đựng phản ánh nó (theo quy định từ khoản 1 đến khoản 6 Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) thì căn cứ khởi tố được giải thích là chứng cứ chứng minh (xác định) có dấu hiệu tội phạm. Đặt trong mối quan hệ giữa Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự thì căn cứ khởi tố được giải thích là dấu hiệu của tội phạm. Nếu đặt trong mối quan hệ giữa chứng cứ với đối tượng chứng minh thì nội dung quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy rằng, cơ sở khởi tố là nguồn chứng cứ, do đó, cái được rút ra từ nguồn chứng cứ phải là chứng cứ; dấu hiệu tội phạm (căn cứ khởi tố) là đối tượng chứng minh, là vấn đề mà chứng cứ có nhiệm vụ phải làm rõ.

Những quan điểm và cách giải thích trên chỉ có ý nghĩa về lý luận, học thuật. Trong thực tiễn, đối với hoạt động áp dụng pháp luật, hai cách giải thích trên đều có thể chấp nhận vì đều làm rõ được nội dung, bản chất của quy phạm pháp luật về căn cứ khởi tố và đều tạo cơ sở cho việc áp dụng đúng pháp luật. Dấu hiệu tội phạm được chứng cứ chứng minh (xác định) hay nói ngược lại có chứng cứ xác định dấu hiệu tội phạm, về bản chất được hiểu giống nhau. Trong quy định của luật về căn cứ khởi tố, nói đến chứng cứ không thể không nói đến đối tượng chứng minh của nó (là dấu hiệu tội phạm) vì nếu không có đối tượng chứng minh thì sẽ không có chứng cứ; ngược lại nói đến dấu hiệu tội phạm cũng không thể không đề cập đến chứng cứ xác định nó, vì dấu hiệu tội phạm không tự bộc lộ mà phải được xác định bằng chứng cứ. Khi giải thích về căn cứ khởi tố nếu tách dấu hiệu tội phạm ra khỏi mối quan hệ với chứng cứ xác định nó sẽ siêu hình, phiến diện.

Trong quy định về căn cứ khởi tố bị can, khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi rõ: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Quy định trên phản ánh rõ hai khía cạnh của căn cứ khởi tố và mối quan hệ giữa chúng, đó là, chứng cứ (căn cứ để xác định đối tượng chứng minh…) và vấn đề cần làm rõ (đối tượng chứng minh – hành vi phạm tội).

Khi giải thích về căn cứ khởi tố vụ án thì vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là hiểu đúng nội dung, phạm vi của quy định “dấu hiệu tội phạm”. Theo tác giả, dấu hiệu tội phạm trong căn cứ khởi tố vụ án quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 được hiểu không hoàn toàn giống các dấu hiệu của tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm.

Các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự, tính chịu hình phạt…) là những thuộc tính của tội phạm. Các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm thì một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi có đủ các dấu hiệu, thuộc tính này nếu thiếu một dấu hiệu nào đó không phải là tội phạm. Dấu hiệu trong cấu thành tội phạm được hiểu là một biểu hiện, một nội dung của các yếu tố cấu thành tội phạm (như dấu hiệu hành vi, dấu hiệu hậu quả… trong mặt khách quan; dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích… trong mặt chủ quan của tội phạm…). Trong lý luận về cấu thành tội phạm cũng phải đầy đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm không thể chỉ dựa vào một vài dấu hiệu trong cấu thành tội phạm để kết luận một chủ thể đã thực hiện tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự.

“dấu hiệu tội phạm” trong căn cứ khởi tố vụ án quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 khác các dấu hiệu của tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm. Đối với dấu hiệu tội phạm với ý nghĩa là căn cứ khởi tố vụ án phải được hiểu theo nghĩa chung, khái quát. Đó là những biểu hiện, những “khía cạnh” của tội phạm được chứng minh, xác định bằng chứng cứ cụ thể. Sự khác nhau về dấu hiệu tội phạm trong căn cứ khởi tố vụ án hình sự với dấu hiệu tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm là ở tính đầy đủ chứ không phải tính khách quan. Khi khởi tố vụ án chỉ cần xác định biểu hiện tội phạm, chưa cần thiết phải xác định đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm và các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm. Tại thời điểm ra quyết định khởi tố vụ án chưa yêu cầu xác định ngay người thực hiện tội phạm là ai, hành vi thực hiện tội phạm diễn ra như thế nào. Mặt khác, những biểu hiện của tội phạm trong căn cứ khởi tố là có thật, tồn tại khách quan và đã được xác định (chứng minh). Căn cứ khởi tố vụ án trả lời câu hỏi đặt ra là dựa vào đâu, vào cái gì để quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự, thủ tục TTHS. Do đó, căn cứ khởi tố vụ án không thể cùng nội dung với căn cứ xác định có tội trong khái niệm tội phạm (xác định một hành vi là tội phạm) và trong cấu thành tội phạm.

>> Xem thêm: Khám nghiệm hiện trường là gì? Khái quát chung về khám nghiệm hiện trường

Căn cứ khởi tố vụ án và căn cứ khởi tố bị can có mối liên hệ chặt chẽ. Việc xác định đúng căn cứ khởi tố bị can, trong nhiều trường hợp là yếu tố góp phần khắc phục những thiếu sót khi khởi tố vụ án hoặc góp phần làm cho nhiệm vụ của khởi tố được thực hiện đầy đủ (trường hợp thay đổi quyết định khởi tố, khởi tố bổ sung).

Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”.

Như vậy, khởi tố vụ án và khởi tố bị can có điểm giống nhau, đều là quyết định bắt đầu điều tra công khai theo trình tự thủ tục TTHS, nhưng khác nhau về thời điểm, yêu cầu và căn cứ khởi tố. Nếu như tại thời điểm ra quyết định khởi tố vụ án chưa yêu cầu xác định ngay người thực hiện tội phạm là ai, pháp nhân nào; hành vi thực hiện tội phạm diễn ra như thế nào thì khi quyết định khởi tố bị can phải xác định chính xác một người hoặc pháp nhân cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Khởi tố bị can không chỉ được tiến hành ở giai đoạn khởi tố vụ án mà còn được thực hiện trong giai đoạn điều tra hay trong giai đoạn truy tố nếu phát hiện có người thực hiện tội phạm.

3. Để có căn cứ khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát phải thông qua các hoạt động kiểm tra, xác minh thu thập chứng cứ, đánh giá sơ bộ để xác định có hay không có một tội phạm tương ứng với một tội danh đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự xảy ra trên thực tế. Khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì không bắt buộc phải chứng minh đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Thông thường, chỉ cần làm rõ khách thể trực tiếp của tội phạm, các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. Vì thế khi xác định có dấu hiệu của tội phạm dù chưa rõ người thực hiện hành vi phạm tội là ai, pháp nhân nào… việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự vẫn được tiến hành.

Mặt khác, không phải tất cả các vụ việc sau khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm thì bắt buộc đều phải khởi tố vụ án hình sự. Tội phạm là một hiện tượng xã hội luôn gắn với một thời điểm, một hoàn cảnh cụ thể, do đó việc khởi tố hay không khởi tố phải gắn với rất nhiều các yếu tố như: chính sách hình sự của nhà nước, yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Do vậy, khi khởi tố vụ án hình sự ngoài việc xác định các dấu hiệu của tội phạm, còn phải kết hợp với một số điều kiện như: Cơ sở của trách nhiệm hình sự (Điều 3); nguyên tắc xử lý (Điều 3); thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27); miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29); tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) và một số quy định khác ở một số tội danh ở từng thời điểm cụ thể theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Để xác định căn cứ khởi tố được chính xác, khách quan, cơ quan có thẩm quyền khởi tố cần thận trọng cân nhắc, đối chiếu các dấu hiệu của tội phạm với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015[6] để xác định chính xác tội danh, hành vi phạm tội cần khởi tố để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Để khắc phục tình trạng khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ pháp lý, việc khởi tố kéo dài không chứng minh được tội phạm và người phạm tội dẫn đến việc bắt oan, bắt sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, làm giảm uy tín của cơ quan có thẩm quyền khởi tố với công dân, thì các cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải quán triệt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc khởi tố. Việc khởi tố phải đảm bảo có căn cứ theo luật định, các quyết định khởi tố phải gửi đến Viện Kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố. Ngoài ra, việc xác định căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can phải dựa trên các nguồn theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, cụ thể: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về bị can, truy tố bị can, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê