Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
- 2. Đối tượng thuộc nguồn nguy hiểm cao độ
- 3. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
- 4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- 5. Nguyên tắc xác định bồi thường thiệt hại
- 6. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
- 7. Điều kiện phát sinh trách nhiệm
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
Nguồn nguy hiểm cao độ là hoạt động liên quan đến việc khai thác những đối tượng nhất định vốn có những thuộc tính đặc biệt tạo ra khả năng cao gây nguy hại lớn cho con người, môi trường xung quanh.
2. Đối tượng thuộc nguồn nguy hiểm cao độ
Phương tiện vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các đối tượng chứa đựng nguồn nguy hiểm cao đã khác do pháp luật quy định, có khả năng gây ra thiệt hại cho con người và môi trường xung quanh. (Khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015).
3. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
Mục 1 Phần III Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP quy định:
“1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật chất hoặc loại thú nào đó gây ra thiệt hại, để có căn cứ áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều 623 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3 Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.”
Như vậy khi xảy ra thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì cần xác định vật đó có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không dựa theo quy định tại Bộ luật dân sự và các văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể như Luật an toàn giao thông đường bộ năm 2008, Luật điện lực năm 2005, Luật quản lý , sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2014....
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Với tính chất là có khả năng gây sát thương cao hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản khi xảy ra lỗi trong quá trình vận hành nên pháp luật đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để đề cao trách nhiệm của người chủ sở hữu hoặc người quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường được xác định dựa trên các nguyên tắc chung của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, loại trừ trách nhiệm do lỗi của chính người gây thiệt hại gây ra hoặc thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Căn cứ Khoản 2 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015, Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bỏi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ngay cả khi không có lỗi, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hay tình thế cấp thiết.
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường.
Căn cứ Khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
5. Nguyên tắc xác định bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy mà các nguyên tắc trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng xuất phát từ những nguyên tắc chung đó. Theo Điều 585 BLDS 2015 việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Việc bồi thường xuất phát từ nguyên tắc công bằng, thiệt hại bao nhiêu thì mức bồi thường sẽ là bấy nhiêu. Và việc bồi thường phải kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm khắc phục tình trạng về tài sản của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ khắc phục tài sản khi bị thiệt hại. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Thứ hai, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Điều này nhằm tạo ra tính khả thi trong việc thực hiện bồi thường thiệt hại trên thực tế. Vì có rất nhiều trường hợp mà khi mức thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thì họ không thể thực hiện việc bồi thường cho chủ thể kia do không đủ tài chính để chi trả.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Việc thay đổi mức bồi thường sẽ căn cứ vào yêu cầu của các bên và thực tế cần phải sự thay đổi mức bồi thường và do Tòa án xác định. Mức bồi thường có thể tăng hoặc giảm tùy theo việc xác định đó.
6. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Chủ thể bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, tổ chức. Tuy nhiên Bộ luật dân sự chỉ quy định tại Điều 586 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân mà không quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác. Do vậy, có thể mặc nhiên hiểu các chủ thể khác gây thiệt hại sẽ được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Căn cứ vào điều 586 BLDS 2015 thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra của cá nhân bao gồm:
Thứ nhất, người đủ từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Bằng tài sản của chính mình.
Thứ hai, người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Thứ ba, người dưới 15 tuổi là chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đó, theo đó cha mẹ của chủ thể có trách nhiệm bồi thường trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự trước tòa án. Nếu tài sản của cha, mẹ của người ở độ tuổi này mà không đủ tài sản để bồi thường mà người con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản của người con đó để bồi thường phần còn thiếu đó. Người trong độ tuổi này là chủ thể có trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì không phải bồi thường mà trách nhiệm bồi thường thuộc về cha, mẹ của người đó. Quy định này nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
7. Điều kiện phát sinh trách nhiệm
a) Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không bao gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Bởi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại là do sự hoạt động của các phương tiện cơ giới, do vậy những thiệt hại gây ra cho người bị thiệt hại là tài sản, sức khỏe, tính mạng. Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm “cao độ” nên nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai. Có thể là chính chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành hay cả những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ…
Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ đến nguồn nguy hiểm đó nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
b) Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Ngay tên của điều luật, Điều 601 BLDS 2015 đã xác định: “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Do đó cần xác định rõ: Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh thông thường.
Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp thì chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt động”. Còn trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Tuy nhiên, trong nguồn nguy hiểm cao độ luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định có thể xảy ra nên có những sự kiện bất ngờ mà con người không thể biết trước và phòng tránh được. Ví dụ: Do mưa làm cho cột điện bị nhiễm điện, người nào không biết đi qua đó bị nhiễm điện chết. Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất ngờ, bất khả kháng chứ không phải do hành vi của con người gây ra và con người cũng không sao kiểm soát và phòng ngừa hiệu quả hết được. Vì thế không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay không có trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Như vậy, để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì tự thân sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại.
Còn trong trường hợp người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong việc sử dụng chúng đã gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
d) Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm không có. Theo khoản 3 Điều 601 BLDS qui định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì:
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác”
Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)