1. Khái quát chung về nguyên tắc mở cửa thị trường.

Mở cửa thị trường, hay còn gọi là "tiếp cận thị trường" (market access) là công cụ quan trọng của GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa và mở rộng thương mại.

Điều kiện tiên quyết để thực hiện điều này là các nước phải thực hiện chính sách mở cửa thị trường đối với sản phẩm nước ngoài. Một khi các nước thành viên đều chấp thuận mở cửa thị trường của nước mình thì khi đó hệ thống thương mại của WTO sẽ trở thành hệ thống thương mại đa phương mở lớn nhất trên thế giới.

Về mặt pháp lý, mở cửa thị trường là nghĩa vụ có tính chất ràng buộc đối với các nước thành viên, theo đó các nước thành viên cam kết và thực hiện lộ trình mở cửa thị trường cho hàng hóa (trong thời kì GATT), dịch vụ và đầu tư nước ngoài (trong thời kỳ WTO).

Đối với các nước đối với các nước muốn gia nhập WTO thì việc đưa ra cam kết về lộ trình mở cửa thị trường được coi như điều kiện tiên quyết để gia nhập WTO. Còn đối với các nước đã là thành viên của WTO thì các vòng đàm phán chính là nơi để các nước đàm phán về nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết mở cửa thị trường.

Mở cửa thị trường được thực hiện thông qua các cam kết về:

- Cấm áp dụng biện pháp hạn chế số lượng;

- Giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan;

- Xóa bỏ các rào cản phi thuế quan

2. Nội dung các cam kết của nguyên tắc mở cửa thị trường.

2.1. Cấm áp dụng dụng biện pháp hạn chế số lượng

Hạn chế về số lượng lần một trong các biện pháp được sử dụng để bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu.

Đây là rào cản mà các nước xuất khẩu không thể vượt qua. Các nước xuất khẩu sẽ không thể tăng số lượng xuất khẩu vượt quá hạn ngạch cho dù có cố gắng cải thiện về chất lượng và giá cả sản phẩm chất phẩm tới mức nào chăng nữa. Hơn nữa khi nước nhập khẩu áp dụng biện pháp hạn chế số lượng thì số lượng và đối tượng hạn chế lại hoàn toàn tùy thuộc vào nước nhập khẩu và thường không minh bạch cho nên có nhiều khả năng là nước xuất khẩu sẽ bị phân biệt đối xử.

Trong khi đó biện pháp thuế quan là rào cản mà các nước xuất khẩu có khả năng vượt qua biện pháp này mặc dù có tác dụng hạn chế nhập khẩu là cách gián tiếp nhưng các nước xuất khẩu vẫn có thể tăng số lượng xuất khẩu thông qua những nỗ lực về chất lượng và giá cả. Hơn nữa khi áp dụng biện pháp đánh thuế thì thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu phải được quy định rõ ràng và các nước xuất khẩu có thể được đối xử một cách công bằng.

Vì là rào cản cứng, trực tiếp đối với thương mại quốc tế như vậy cho nên hạn chế về số lượng là biện pháp đi ngược lại mục tiêu mở rộng tự do hóa thương mại của GATT/WTO và nó bị cấm áp dụng nói chung trong điều 11 GATT 1994 rằng các nước thành viên không được phép thiết lập mới hay duy trì việc cấm và hạn chế về xuất nhập khẩu sản phẩm bằng hạn ngạch giấy phép hay bất cứ biện pháp nào khác loại trừ thuế quan và lệ phí.

Ngoại lệ:

Mặc dù đây là biện pháp cấm tuy nhiên GATT 1994 vẫn cho phép các nước thành viên áp dụng hạn chế số lượng trong một số trường hợp ngoại lệ cụ thể là khi ngành sản xuất trong nước bị hoặc có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng do sự gia tăng ồ ạt của hàng nhập khẩu cùng lọai. Trong trường hợp này hạn chế về số lượng được cho phép áp dụng như là biện pháp tự vệ trong một thời hạn nhất định để ngăn chặn thiệt hại hoặc để cứu ngành sản xuất trong nước (Điều XIX GATT) hoặc khi một nước thành viên được cho phép áp dụng biện pháp trả đũa đối với nước thành viên khác vì không tuân thủ nghĩa vụ của WTO thì hạn chế nhập khẩu cũng được cho phép áp dụng trong một chừng mực nhất định (khoản 2 điều XXIII) hạn chế về số lượng cũng được phép áp dụng đối với mục đích bảo vệ cán cân thanh toán quốc tế của một nước thành viên (Khoản 2 Điều XVIII) hay khi được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ nào đó (điều XXV) ngoài ra hạn chế số lượng còn được áp dụng với các lý do như bảo vệ sức khỏe của con người, động vật, an ninh quốc phòng, lương thực,... (Điều XX, XXI) Tuy vậy, GATT cũng quy định rằng khi áp dụng hạn chế số lượng các nước phải tuân theo nguyên tắc không phân biệt đối xử (điều XIII)

2.2. Giảm và tiến tới xóa bỏ bỏ hàng rào thuế quan

Như đã đề cập ở trên, WTO chỉ cho phép các nước thành viên áp dụng thời quan như là một biện pháp gián tiếp và duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước. Bên cạnh đó nó đưa ra các quy định cụ thể về việc đàm phán giảm thuế suất nhằm mục tiêu mở rộng thương mại và đồng thời đặt ra các quy định nhằm duy trì ổn định các kết quả đàm phán này.

Khác với phương thức đàm phán song phương giữa hai quốc gia phương thức đàm phán giảm thuế trong liên tiếp có đặc thù riêng là các đàm phán này được tiến hành đồng loạt giữa các nước thành viên tại các vòng đàm phán kết quả của các đàm phán này sẽ được áp dụng cho các nước thành viên khác theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Kết quả đàm phán này được ghi trong biểu thuế suất nhượng bộ trong đó ghi rõ cam kết của từng nước theo Danh mục hàng mã thuế và thuế suất cam kết (khoản 7 điều II) và nó có giá trị ràng buộc đối với các nước thành viên thuế suất này được thực hiện trong vòng 3 năm và sau đó được gia hạn tiếp hoặc là đàm phán lại.

Để đảm bảo kết quả đàm phán về thuế và nhằm mở rộng thương mại một cách ổn định, WTO đưa ra quy định cấm các nước thành viên đánh thuế cao hơn mức thuế suất mà họ đã cam kết giảm hoặc giữ nguyên và không cho phép các nước thành viên đơn phương, tự ý thay đổi, nâng thuế suất nhượng bộ này.

Ngoại trừ có các căn cứ sau:

Thứ nhất, khi kết thúc thời hạn 3 năm thực hiện đề xuất nhượng bộ (Khoản 1 điều XXVIII):

Ngày đầu tiên của mỗi thời kỳ 3 năm, thời kỳ đầu tiên bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 1958 (hoặc ngày đầu tiên của bất kỳ thời kỳ nào có thể được Các Bên Ký Kết xác định thông qua bỏ phiếu với hai phân ba số phiếu có chính kiến) bất kỳ bên ký kết nào (dưới đây gọi là 'bên yêu cầu') có thể điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng thuộc Biểu tương ứng ở phần phụ lục của Hiệp định này, sau khi đã đàm phán và đạt được thoả thuận với mỗi bên ký kết đã tham gia đàm phán ban đầu cũng như với bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền lợi như là đối tác cung cấp chủ yếu* được Các Bên Ký Kết công nhận (cả hai loại bên ký kết cũng như bên yêu cầu trong điều khoản này sẽ được gọi là 'bên ký kết có quan tâm trước hết') và với bảo lưu là bên ký kết đó đã tham vấn bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền lợi đáng kể* với nhân nhượng đó* được điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng thuộc Biểu là phụ lục của Hiệp định này.

hoặc trong thời gian này có hoàn cảnh đặc biệt được đại hội đồng các nước thành viên thừa nhận ( khoản 4 Điều XXVIII):

Bất kỳ lúc nào và trong những hoàn cảnh đặc biệt, Các Bên Ký Kết có thể cho phép* một bên ký kết tiên hành đàm phán nhằm điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng trong Biểu tương ứng thuộc phụ lục của Hiệp định này, theo những thủ tục và điều kiện dưới đây:

(a) Các cuộc đàm phán đó* cũng như mọi tham vấn liên quan sẽ được tiến hành phù hợp với các quy định tại khoản 1 và 2 của điều khoản này.

(b) Nếu đàm phán đạt đến được một thoả thuận giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể chủ yếu, sẽ áp dụng các quy định của khoản 3b) của điều khoản này.

(c) Nếu không đạt được một thoả thuận giữa các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được phép tiến hành đàm phán hoặc trong thời hạn nào đó dài hơn thế đã được Các Bên Ký Kết xác định, bên yêu cầu có thể đưa vấn đề ra Các Bên Ký Kết giải quyết.

(d) Nếu được yêu cầu như vậy, Các Bên Ký Kết sẽ phải nhanh chóng xem xét và thông báo ý kiến của mình cho các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu biết để giải quyết vấn đề. Nếu không giải quyết được, các quy định của khoản 3b) sẽ được áp dụng như là trường hợp các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu đã đạt được thoả thuận. Nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu không đạt được thoả thuận, bên yêu cầu có thể điều chỉnh hay rút bỏ các nhân nhượng, trừ khi Các Bên Ký Kết xác định rằng bên ký yêu cầu chưa làm hết những gì hợp lý và có thể để đưa ra một sự bù đắp đúng mức*, Nếu một biện pháp như vậy được áp dụng, mọi bên ký kết đã tham gia đàm phán ban đầu, mọi bên ký kết có quyền lợi như là nước cung cấp chủ yếu được thừa nhận như quy định tại khoản 4a) và tất cả các bên ký kết có quyền lợi đáng kể được thừa nhận như quy định tại khoản 4a) trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày biện pháp đó được áp dụng và sau 30 ngày kể từ ngày Các Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng văn bản có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã được đàm phán ban đầu với bên yêu cầu.

Thứ hai, việc gia nhập đồng minh thuế quan. WTO cho phép thành lập đồng minh thuế quan với tư cách à ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối Huệ Quốc trong đó thương mại giữa các nước Đồng Minh này hoặc tự do hoàn toàn và các nước đồng minh thuế quan phải áp dụng chính sách thuế quan chung đối với các nước ngoài khối là thành viên của WTO (Khoản 8 Điều XXIV GATT 1994):

a) liên minh quan thuế là sự thay thế hai hay nhiêu lãnh thổ quan thuế bằng một lãnh thổ quan thuế khi sự thay thế đó có hệ quả là:

(i) thuế quan và các quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ hợp thành liên minh, hoặc ít nhất cũng được loại trừ về cơ bản với trao đổi hàng hoá có xuất xứ từ các lãnh thổ này;

(ii) với bảo lưu như các quy định tại khoản 9, thuế quan và các quy tắc được từng thành viên của liên minh áp dụng trong thương mại với các lãnh thổ bên ngoài là thống nhất về nội dung;

Trong trường hợp này các nước thành viên có nguyện vọng sửa đổi, hủy bỏ cam kết sẽ phải đàm phán lại về thuế suất đối với các nước xuất khẩu chủ yếu theo quy định của điều XXVIII nêu trên.

Thứ ba, các nước thành viên có thể sửa đổi, hủy bỏ thuế xuất hiện bộ trong các trường hợp như thực hiện biện pháp khẩn cấp khi nhập khẩu tăng đột biến (Điều XIX GATT), trường hợp đặc biệt của các nước đang phát triển (Điều XVIII) đã đàm phán về thuế suất nhượng bộ với một nước sinh ra nhập WTO nhưng sau đó lại không trở thành thành viên của WTO, hoặc khi một nước thành viên của WTO rút khỏi tổ chức này.

2.3. Giảm dần và tiến tới xóa bỏ biện pháp phi thuế quan

Như đã trình bày ở trên mức thuế quan của các nước đã giảm đi đáng kể qua các vòng đàm phán nhưng thay vào đó các hàng rào phi thuế quan lại được các nước áp dụng nhiều hơn để hạn chế nhập khẩu và nó đồng nghĩa với việc cản trở tự do hóa thương mại quốc tế. Do đó giảm dần tiến tới xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan ngày càng được chú trọng hơn trong WTO

Vấn đề cắt giảm các hàng rào Phi thuế quan thực sự được quan tâm kể từ năm 1967 và kết quả vòng đàm phán Tokyo 1973 -1979 đã cho ra đời đạo luật quan trọng về trợ cấp của Chính phủ và các biện pháp đối kháng, chống phá giá, mua sắm chính phủ, định giá hải quan, thủ tục cấp phép nhập khẩu, tiêu chuẩn sản phẩm. Thỏa thuận này quy định những nguyên tắc cơ bản về áp dụng các biện pháp phi thuế quan kể trên, bổ sung cho các quy định liên quan của GATT năm 1947 và trở thành bộ phận của GATT 1994 nằm trong Hiệp định thành lập WTO các hiệp định kèm theo khi WTO ra đường năm 1995.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm & biên tập)