Mục lục bài viết
1. Thủ tục trước khi xét xử sơ thẩm:
Mặc dù bản chất chính xác của những sự kiện mang tính thủ tục này thay đổi theo thực tiễn của liên bang và bang - và giữa các bang với nhau - nhưng vẫn có những điểm tương đồng trên toàn đất nước. Tuy nhiên, những thủ tục này không mang tính tự động hay lệ thường mà đúng hơn là những người ra phán quyết của hệ thống pháp lý thực thi quyền tự quyết tại mọi bước tuỳ theo giá trị, thái độ và thế giới quan của họ.
1.1 Việc bắt giữ
Bắt giữ là sự liên hệ quan trọng đầu tiên giữa bang và bị cáo. Hệ thống pháp lý Mỹ đưa ra hai loại bắt giữ cơ bản - bắt giữ có lệnh và bắt giữ không có lệnh. Lệnh bắt giữ được ban hành sau khi một đơn kiện, do một người lập hồ sơ để kiện người khác, đã được trình bày và xếm xét bởi một thẩm phán tiểu hình, người đã tìm ra nguyên nhân hợp lý cho việc bắt giữ. Bắt giữ không có lệnh xảy ra khi tội phạm diễn ra trước sự có mặt của một cảnh sát hay khi một viên cảnh sát có nguyên nhân hợp lý để tin rằng một người nào đó đã phạm (hoặc dường như phạm) một tội. Niềm tin như vậy sau đó phải được thể hiện bằng một tuyên bố cam đoan hoặc một bản cam kết. Ớ Mỹ, 95% các cuộc bắt giữ là không có lệnh.
Quyết định của cảnh sát có bắt giữ hay không không hề đơn giản hay mang tính tự động một chút nào. Đe chắc chắn, viên cảnh sát chứng kiến vụ giết người sẽ bắt giữ ngay tại chỗ nếu có thể. Nhưng hầu hết nhũng vụ vi phạm pháp luật đều không đơn giản hay rõ ràng, và những viên chức cảnh sát có được - và thực thi — quyền tự quyết lớn về việc có bắt giữ người nào đó hay không. Nhũng nguồn lực cần thiết không sẵn có cho cảnh sát một cách giản đơn đế họ khởi kiện tất cả những hành động mà Quốc hội và các cơ quan lập pháp cấm. Do vậy, quyền tự quyết phải được thực thi để xác định phân bổ thời gian và nguồn lực đang có như thế nào. Quyền tự quyết của cảnh sát được phát huy tối đa trong một số lĩnh vực.
1.2 Những vi phạm nhỏ
Nhiều cẩm nang cho cảnh sát khuyên các sĩ quan rằng khi xảy ra những vi phạm luật pháp không đáng kể thì cảnh cáo, nhắc nhở là biện pháp hợp lý hơn so với bắt giữ. Vi phạm giao thông, những hành xử sai của tuổi vị thành niên, say rượu, đánh bạc và sống lang thang cấu thành những tội không quá nghiêm trọng và đòi hỏi cảnh sát phải có sự phán xét.
1.3 Nạn nhân sẽ không tìm cách khởi kiện.
Không cưỡng chế thi hành luật pháp cũng là nguyên tắc trong những tình huống mà nạn nhân của một tội phạm sẽ không hợp tác với cảnh sát trong việc khởi tố một vụ án. Chẳng hạn, trong trường hợp tội phạm tài sản không đáng kể, nạn nhân thường thoả mãn nếu có bồi thường và không thể có đủ thời gian để làm chứng trước toà. Nhìn chung, cảnh sát bắt buộc phải tôn trọng mong muốn của nạn nhân trừ phi họ đã dùng hết những nguồn lực to lớn để điều tra một tội phạm tài sản cụ thế.
Khi nạn nhân của một tội phạm đang có mối quan hệ với kẻ phạm tội thì cảnh sát thường có xu hướng bắt giữ. Những mối quan hệ như vậy bao gồm chủ nhà và người thuê nhà, người hàng xóm này với người hàng xóm khác, và cho đến gần đây là giữa chồng và vợ. Tuy nhiên, trong trường hợp cuối này, nhận thức được đề cao về bạo lực trong gia đình có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến các thủ tục của cảnh sát.
Hãm hiếp và quấy rối trẻ em cấu thành một hạng mục tội phạm quan trọng khác mà đối với chúng thường không có bắt giữ vì nạn nhân sẽ không hoặc không thể hợp tác với cảnh sát. Thông thường, về mặt cá nhân nạn nhân quen biết với, hoặc liên quan đến, kẻ phạm tội và nỗi sợ bị trả đũa hay công khai thù địch ngăn cản nạn nhân khởi kiện.
1.4 Nạn nhân cũng tham gia vào hành vi sai trái
Khi cảnh sát nhận thấy rằng nạn nhân của một tội phạm cũng có liên quan đến một số hành xử không đúng hoặc đáng ngờ thì cảnh sát thường lựa chọn không bắt giữ.
1.5 Xuất hiện trước thẩm phán tiểu hình
Khi một người bị bắt giữ vì tình nghi phạm tội thì người đó sẽ bị lưu giữ ở đồn cảnh sát; có nghĩa là những sự kiện xung quanh việc bắt giữ được ghi chép lại và bị cáo có thể bị lấy vân tay và chụp hình. Sau đó bị cáo xuất hiện trước một quan chức tư pháp cấp thấp mà chức danh có thể là thẩm phán, thẩm phán tiến hành, hay ủy viên hội đồng (commissioner). Sự xuất hiện như vậy phải xảy ra "mà không có sự chậm trễ vô cớ"; năm 1991, Toà án tối cao Mỹ quyết định rằng cảnh sát có thể lưu giữ một người bị bắt giữ không có lệnh trong vòng 48 giờ mà không cần phải có một phiên toà xem xét việc bắt giữ đó có đúng hay không.
Sự xuất hiện này ở toà án là dịp diễn ra một số sự kiện quan trọng trong thủ tục tố tụng hình sự. Trước hết, bị cáo phải được thông báo trước về những lời buộc tội chính xác và phải được thông tin về bảo lãnh và những quyền được hưởng theo Hiến pháp. Trong số nhũng quyền khác, những quyền được hưởng theo Hiến pháp này bao gồm nhũng quyền nêu trong phán quyết của vụ án nổi tiếng hiện nay, vụ Miranda kiện Arizona, do Toà án tối cao đưa ra năm 1966. BỊ cáo "phải được cảnh báo trước bất kỳ câu hỏi nào rằng anh ta có quyền giữ im lặng, rằng bất cứ điều gì anh ta nói đều có thế dùng làm bằng chúng chống lại anh ta ở toà án, rằng anh ta có quyền thuê luật sư, và rằng nếu anh ta không có khả năng thuê luật sư thì sẽ có một người được chỉ định thay mặt anh ta trả lời bất kỳ câu hỏi nào". (Nhũng cảnh báo nhưvậy cũng phải được viên cảnh sát bắt giữ thông báo nếu viên cảnh sát đó là người đặt câu hỏi về tội phạm cho kẻ bị tình nghi). Ở một số bang, bị cáo phải được thông báo về những quyền khác nêu trong Hiến chương nhân quyền của bang, như quyền được xét xử nhanh và quyền đối chất với những nhân chứng đối nghịch.
Thứ hai, thẩm phán tiểu hình sẽ xác định bị cáo có được bảo lãnh tại ngoại hay không, và trong trường hợp đó thì số tiền bảo lãnh là bao nhiêu, về mặt Hiến pháp, yêu cầu duy nhất đối với số tiền bảo lãnh là nó không được "quá lớn". Bảo lãnh được coi là một đặc quyền — chứ không phải quyền lợi - và nó có thể bị từ chối trong những vụ án tử hình mà bằng chứng phạm tội có tính thuyết phục cao hoặc nếu thẩm phán tiếu hình tin rằng bị cáo sẽ lẩn trốn khỏi bị kiện tụng mà không cần quan tâm số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Một biện pháp thay thế bảo lãnh là giải phóng bị đơn bằng cam kết trước toà, về cơ bản là một lời hứa của bị đơn sẽ quay lại toà án vào ngày xét xử được chỉ định.
Trong những vụ án nhỏ, bị cáo có thể được yêu cầu bào chữa có phạm tội hoặc không phạm tội. Nếu lời bào chữa là có phạm tội thì một bản án có thể được tuyên đọc ngay tại chỗ. Nếu bị đơn bào chữa là vô tội thì sẽ lên kế hoạch một ngày xét xử. Tuy nhiên, trong vụ án nghiêm trọng điển hình (tội phản quốc), nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của thẩm phán tiểu hình là xác định liệu bên bị có yêu cầu một phiên toà sơ bộ hay không. Nếu một phiên toà như vậy là cần thiết thì vụ án sẽ được công tố hoãn lại và bắt đầu một bước tiếp theo của thủ tục tố tụng hình sự.
2. Thủ tục đại bồi thẩm đoàn hay phiên toà sơ bộ
Ớ cấp độ liên bang tất cả những người bị cáo buộc phạm tội đều được bảo đảm theo Tu chính án Hiến pháp thứ năm rằng vụ án của họ sẽ được một đại bồi thẩm đoàn xem xét. Tuy nhiên, Toà án tối cao từ chối làm cho quyền lợi này ràng buộc tất cả các bang. Ngày nay, chỉ khoảng một nửa số bang sử dụng đại bồi thẩm đoàn; ở một số bang trong những bang này đại bồi thẩm đoàn chỉ được dùng cho những loại vụ án đặc biệt. Những bang không sử dụng đại bồi thẩm đoàn sẽ áp dụng một phiên toà sơ bộ hoặc một phiên thẩm vấn. (Một số bang sử dụng cả hai thủ tục này). Bất cứ phương pháp nào được sử dụng, mục đích cơ bản của khâu này trong thủ tục tố tụng hình sự là để xác định liệu có nguyên nhân hợp lý nào để đưa bị cáo ra phiên toà chính thức không.
2.1 Đại bồi thẩm đoàn.
Các đại bồi thẩm đoàn gồm 16 đến 23 công dân, thường lựa chọn một cách ngẫu nhiên từ danh sách đăng ký cử tri, đưa ra phán quyết trên cơ sở đa số phiếu bầu. Nhiệm kỳ của những người này có thể kéo dài tùy ý từ một tháng đến một năm, và một số người có thể tham gia vào hơn 1000 vụ án trong nhiệm kỳ của họ. Chỉ một mình công tố trình bày bằng chứng trước đại bồi thẩm đoàn. Bị cáo và luật sư của bị cáo không chỉ vắng mặt ở vụ kiện mà thông thường họ còn không có ý kiến gì về việc đại bồi thẩm đoàn xét xử vụ án như thế nào và khi nào. Nếu có đa số tin rằng có nguyên nhân hợp lý thì một bản cáo trạng (indictment), hay một đơn kiện (bill) thực sự, sẽ được đưa ra. Nếu không thì sẽ không có đơn kiện.
Từ trước đến nay, có hai lý lẽ được đưa ra để ủng hộ cho các đại bồi thẩm đoàn. Một là các đại bồi thẩm đoàn hoạt động như là người ngăn cản công tố có thể sử dụng chức vụ của mình để quấy rối một người vô tội vì những lý do chính trị hay cá nhân. Lý tưởng nhất là một nhóm người không thiên vị sẽ tự can thiệp vào giữa công tố vô nguyên tắc và bị cáo. Lý lẽ thứ hai ủng hộ đại bồi thẩm đoàn là bảo đảm rằng luật sư địa hạt đã có đủ bằng chứng để chứng thực rắc rối và chi phí (cho cả bang và bị cáo) của một phiên toà xét xử đầy đủ.
2.2 Phiên toà sơ bộ.
Ở đa số các bang đã bãi bỏ hệ thống đại bồi thẩm đoàn, một phiên toà sơ bộ được sử dụng để xác định liệu đã có nguyên nhân hợp lý để ràng buộc bị cáo để xét xử hay chưa. Ớ phiên toà này, công tố trình bày vụ kiện, và bị cáo có quyền đối chất các nhân chứng và đưa ra bằng chứng thoả đáng. Thông thường, các luật sư của bị cáo lựa chọn không tranh cãi ở khâu này của thủ tục tố tụng hình sự; trên thực tế, các luật sư từ bỏ phiên toà sơ bộ trong phần lớn các vụ kiện.
Nếu thẩm phán thẩm vấn xác định rằng có nguyên nhân hợp lý để xét xử hay nếu phiên toà sơ bộ bị chối bỏ thì công tố phải đệ trình một đơn kiện lên toà án nơi việc xét xử sẽ được tiến hành. Điều này giúp cho việc phác thảo chính xác những lời buộc tội sẽ được đưa ra xét xử ở cấp độ pháp lý mới.
Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật Minh Khuê, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hang còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật Minh Khuê 1900.6162 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email lienhe@luatminhkhue.vn để được giải đáp thắc mắc.
Trân trọng!