1. Hiến pháp là phương tiện bảo vệ quyền con người quyền công dân ?

Hiến pháp là văn bản có vị trí cao nhất trong thang bậc hiệu lực pháp lý, đóng vai trò là đạo luật gốc, làm cơ sở cho các văn bản khác trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia. Những nội dung không thể thiếu trong hầu hết các bản hiến pháp, đó là những quy định về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và ghi nhận quyền con người, quyền công dân đã làm cho hiến pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nhân quyền

Thông qua hiến pháp, người dân xác định những quyền gì của mình mà nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cùng những cách thức đế bảo đảm thực thi những quyền đó.

Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tôi cao, hiến pháp là bức tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền công dân của hiến pháp còn được phát huy qua việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền, cụ thể như thông qua hệ thôhg toà án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman) hay toà án hiến pháp...

Hiến pháp là văn bản ghi nhận quyền con người, quyền công dân bên cạnh đó hiến pháp là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà nước để quyền con người, quyền công dân được thực thi.

Muốn đảm bảo quyền con người, quyền công dân thì trước hết nhà nước phải ghi nhận những quyền đó, nếu không có sự ghi nhận thì sẽ không có sự bảo vệ và thúc đẩy việc hiện thực hóa những quyền này. Việc ghi nhận quyền con người trong hiến pháp cũng là cách để một quốc gia tuyên bố với thế giới về tình trạng nhân quyền của nước mình.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội, trong đó và trước hết là những cơ quan, cán bộ nhà nước. Điều đó có nghĩa rằng, các cơ quan nhà nước phải nỗ lực trong việc tạo ra cơ chế (ban hành thể chế và thành lập các thiết chế) để các quyền con người, quyền công dân được thực thi. Nếu không tạo điều kiện và cơ chế để hiện thực hóa các quyền con người, quyền công dân ghi trong hiến pháp thì chính nhà nước cũng bị coi là không hoàn thành trách nhiệm và trong một chừng mực nhất định có thể bị coi là vi hiến. Do vậy, có thể nói rằng, trong trường hợp này hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Bảo đảm bằng cách “bắt” nhà nước phải thực hiện chính những gì mà mình đã ghi nhận về quyền con người, quyền công dân trong nội dung của hiến pháp.

>> Mọi thắc mắc xin liên hệ luật Minh khuê qua hotline : 1900.6162

 

2. Hiến pháp là công cụ phòng chống tham nhũng ?

Một trong những vai trò quan trọng bậc nhất của Hiến pháp là phòng, chống tham nhũng, hay nói một cách khác, Hiến pháp là một trong những công cụ để phòng, chống tham nhũng của quốc gia. Muốn cho Hiến pháp là công cụ của việc phòng, chống tham nhũng, cũng là việc hiểu Hiến pháp như là công cụ kiểm soát, quyền lực. Nếu quyền lực không kiểm soát được, cũng là quyền lực đã góp phần gia tăng cho tệ nạn tham nhũng.

Có nhiều định nghĩa về tham nhũng: Theo Ngân hàng Thế giới (WB), "tham nhũng là lạm dụng các quỹ hay/hoặc chức vụ công để thu lợi ích chính trị hay lợi ích vật chất riêng" . Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), "tham nhũng là lạm dụng quyền lực được giao để thu lợi riêng” Còn theo Rose Ackerman - một chuyên gia quốc tế nổi tiếng về phòng, chống tham nhũng - "tham nhũng là việc sử dụng sai quyền lực được giao để thu lợi ích riêng"...

Từ những định nghĩa này, có thế thâỳ bản chất của tham nhũng chính là sự tha hoá của quyền lực - một quá trình mang tính quy luật mà đã được John Acton (1834-1902) vạch ra từ năm 1887: "Quyền lực dẫn tới sự tha hóa. Quyền lực tuyệt đổĩ dẫn tới sự tha hóa một cách tuyệt đối".

Để ngăn ngừa tham nhũng cần phải kiểm soát và chế ước những chủ thế nắm giữ quyền lực. Đây là một trong những chức năng cơ bản của hiến pháp. Tuỳ theo từng quốc gia, hiến pháp quy định những cách thức giám sát, kiểm soát quyền lực khác nhau, song đều triến khai theo cả hai phương diện: giám sát, kiểm soát trong nội bộ các cơ quan nhà nước (mà đặc trưng là cơ chế tam quyền phân lập) và giám sát, kiểm soát của nhân dân từ bên ngoài với bộ máy nhà nước.

Trong thực tế, hành vi tham nhũng chủ yếu là sự lạm dụng quyền lực nhà nước, bởi các cơ quan, công chức nhà nước. Do đó, khái niệm quyền lực trong tham nhũng cơ bản đề cập đến quyền lực nhà nước (hay quyền lực công, mặc dù trên thực tế nó không chỉ giới hạn trong dạng quyền lực này). Ở đây tham nhũng có tính chất là một “căn bệnh" chung, cố hữu của mọi nhà nước, bất kế thuộc thể chế chính trị nào.

Ngoài những quy định về kiềm chế đối trọng giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, hiến pháp của một số quốc gia, ví dụ như Thái Lan, còn quy định nhiều cơ chế và thiết chế giám sát quyền lực khác bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, cụ thể như: chế độ bất khả kiêm (cấm các quan chức nhà nước không đồng thời giữ hai chức vụ hay có vai trò trong các đảng chính trị); chế độ công khai, minh bạch tài sản và thu nhập (của các quan chức nhà nước); các quy định chông xung đột lợi ích (cấm các quan chức và người thân trực tiếp hay gián tiếp tham gia các doanh nghiệp nhà nước hay cung cap dịch vụ công); mở rộng các quyền dân sự chính trị, đặc biệt là tự do thông tin, để người dân dễ dàng giám sát chính phủ; thành lập các thiết chế hiến định độc lập để giám sát, xử lý các quan chức tham nhũng, cụ thế như toà án hiến pháp (thậm chí cả toà án hình sự riêng để xét xử những người giữ chức vụ chính trị cao), Uỷ ban chống tham nhũng quốc gia, cơ quan Thanh tra Quốc hội, Hội đồng Kiểm toán quốc gia, Uỷ ban Nhân quyền quốc gia, Hội đồng bầu cử quốc gia...

 

3. Hiến pháp là công cụ để đánh giá một nền dân chủ ?

''Hiến pháp không phải là một công cụ của chính phủ để đàn áp nhân dân, mà là một công cụ để nhân dân kiềm chế chính phủ " Câu nói này phản ánh một cách khái quát mối quan hệ giữa hiến pháp và dân chủ. Nó cũng có nghĩa là thông qua hiến pháp có thế bước đầu đánh giá được một nền dân chủ

Dân chủ có nghĩa là một hệ thống chính phủ được thành lập và mang tính chính danh thông qua bầu cử. Tuy nhiên, không phải ai cũng được ứng cử trong các cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng cử. Thêm vào đó, không phải ai cũng được đi bầu.

Bản chất của hiến pháp là dân chủ, vì nó thể hiện quyền lực của nhân dân và phải được thông qua với sự đồng ý của nhân dân. Như vậy, hiến pháp phản ánh một nền dân chủ trước hết qua cách thức làm ra nó. Về khía cạnh này, khả năng, mức độ tham gia (thực chất) của người dân vào việc xây dựng và thông qua hiến pháp tỷ lệ thuận với tính dân chủ của một nhà nước. Ở một quốc gia càng dân chủ, nhà nước càng áp dụng nhiều biện pháp để người dân có thế tự do và thuận lợi đóng góp ý kiến vào việc xây dựng hiến pháp, cũng như vào việc bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp. Thêm vào đó, ở một quốc gia dân chủ, quá trình trưng cầu ý dân và xin ý kiến nhân dân được thực hiện một cách trân trọng, minh bạch, dưới sự giám sát chặt chẽ của báo chí và các tổ chức xã hội dân sự. Điều này rất quan trọng vì hầu hết các nước thực hiện trưng cầu ý dân hoặc các hình thức xin ý kiến nhân dân về dự thảo hiến pháp, nhưng ở nhiều quốc gia quá trình này được tiến hành một cách hình thức, thiếu minh bạch hoặc đi kèm với sự đe doạ (công khai hay ngấm ngầm) của chính quyền khiến người dân không dám thể hiện quan điểm thật sự của mình.

Tính chất, mức độ của một nền dân chủ cũng được thể hiện qua nội dung của hiến pháp, về khía cạnh này, một hiến pháp càng có cơ chế giám sát quyền lực và bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiến bộ thì càng thế hiện tính chất, mức độ dân chủ cao của nhà nước. Đó là bởi chỉ trong môi trường dân chủ, các vấn đề này mới được khẳng định trong hiến pháp. Đến lượt nó, một khi đã được ghi nhận trong hiến pháp, những vấn đề này sẽ là nền tảng để thúc đẩy nền dân chủ của quốc gia.

 

4. Tam quyền phân lập thể hiện qua hiến pháp như thế nào ?

Tại một số quốc gia, phân lập quyền lực là việc quyền lực của nhà nước được phân chia cho nhiều cơ quan khác nhau. Một mô hình được nhắc đến nhiều là tam quyền phân lập trong đó 3 quyền của nhà nước là lập pháp, hành pháp, và tư pháp được phân chia cho 3 cơ quan độc lập nắm giữ . Mục đích là đế tạo cơ chế nội bộ giám sát, ngăn ngừa sự lạm quyền trong bộ máy nhà nước.

- Lập pháp: biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân - Quốc hội

- Hành pháp: là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.

- Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.

Mức độ và hình thức "phân lập" thể hiện khác nhau giữa các quốc gia. Ở Hoa Kỳ, Tổng thống nắm giữ quyền hành pháp và độc lập với cơ quan lập pháp là lưỡng viện Quốc hội. Ở những nước như Đức, tổng thống/nguyên thủ quốc gia hầu như là chức vụ mang tính nghi thức, Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, Chính phủ và Thủ tướng là cơ quan được ủy quyền hành pháp được Quốc hội bầu cử ra. Ở Pháp, Tổng thống lại là người nắm nhiều quyền hơn, Tổng thống chi phối mạnh mẽ Thủ tướng và Chính phủ và có quyền chọn Thủ tướng, nhưng Quốc hội có quyền bãi miễn Thủ tướng.

Trong thực tế, tư tưởng về việc phân chia quyền lực trong tổ chức nhà nước đã được để cập bởi một số nhà triết học khác, bao gồm John Locke, và đã được áp dụng từ thời La Mã cổ đại. Tuy nhiên, chỉ đến Montesquieu thì tư tưởng này mới được phát triển thành một học thuyết độc lập, hoàn chỉnh.

Dựa trên học thuyết tam quyền phân lập , hiến pháp của các nước tư sản giao quyền lập pháp cho nghị viện (là cơ quan đại diện được bầu ra bằng tuyển cử, được coi là biểu hiện ý chí chung của quốc gia), quyền hành pháp cho chính phủ (là cơ quan có trách nhiệm thực thi luật pháp đã được nhà nước ban hành), quyền tư pháp cho toà án (để phán xử những vi phạm pháp luật). Bên cạnh đó, tuỳ quốc gia, hiến pháp còn có nhiều quy định về mối quan hệ ràng buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ, theo Hiến pháp Hoa Kỳ, Nghị viện có quyền thông qua luật nhưng để có hiệu lực phải được Tổng thông ký phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thôhg có quyền ký kết các điểu ước quốc tế nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Từ sau vụ Marbury kiện Madison, nhánh tư pháp ở Hoa Kỳ có quyền xem xét các đạo luật đã được ban hành liệu có vi hiến hay không ...

Tính đến nay, sự phân quyền và ràng buộc theo học thuyết tam quyền phân lập tạo ra cơ chế nội bộ hữu hiệu nhất để các nhánh quyền lực nhà nước giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau, ngăn ngừa sự lạm quyền ; đồng thời vẫn bảo đảm những mối liên hệ cần thiết giữa các nhánh quyền lực bị chia tách để những cơ quan này có thế cộng tác với nhau vì lợi ích chung của đất nước.. .Chính vì vậy, không chỉ hiến pháp các nước tư sản mà hiến pháp của hầu hết quốc gia trên thế giói hiện nay đều được xây dựng dựa theo lý thuyết tam quyền phân lập, dù mức độ và cách thức áp dụng ít nhiều khác nhau.

 

5. Nguyên tắc tập quyền thể hiện qua hiến pháp như thế nào ? 

Ở nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay vua. Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước tổ chức thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Ở nước ta, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội.

Nguyên tắc tập quyền (hay nguyên tắc tập quyền XHCN) là nền tảng tổ chức bộ máy nhà nước của các nước XHCN. Nguyên tắc này đề cao vị trí, vai trò của cơ quan đại diện các cấp (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) trong tổng thể bộ máy nhà nước. Theo nguyên tắc này, hiến pháp xác định cơ quan đại diện cao nhất (Quốc hội) cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền bầu ra các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, bao gồm chính phủ và toà án tối cao, đồng thời trao các chức năng, nhiệm vụ và giám sát hoạt động của các cơ quan đó.

Tập quyền gồm :

- Tập quyền tuyệt đối: đây có thể gọi là hình thức tổ chức quyền lực mà cơ quan nhà nước trung ương tối cao trực tiếp bổ nhiệm và chỉ đạo mọi hoạt động ở địa phương, nguyên thủ quốc gia (hoàng đế, tổng thống) hoặc thủ tướng chính phủ bổ nhiệm/bãi nhiệm tất cả các chức vụ cao cấp (trưởng, cấp phó và các chức vụ cao cấp khác) của các cơ quan đầu não ở trung ương và các cấp chính quyền địa phương (thường đến cấp huyện và tương đương, cấp xã, công xã và tương đương thường thực hiện chế độ tự quản).Mọi hoạt động của chính quyền địa phương đều theo mệnh lệnh từ một cơ quan duy nhất ở trung ương.

- Tập quyền có phân chia trách nhiệm:một ông vua hay hoàng đế cũng không thể tự mình cai quan hết mọi vấn đề trong đời sống của một quốc gia. Chính vì vậy, các vị vua thường vẫn thường phải cử các quan lại, tướng lĩnh thay mặt mình để đi do thám, tuần tra, giữ yên bờ cõi, làm yên lòng dân chúng. Mỗi quan lại, tướng lĩnh lúc đó được ủy quyền thực hiện lệnh của vua/hoàng đế. Được sắc phong một chức quan là được giao những quyền hạn nhất định, kể cả quyền quyết định đến sinh mệnh của dân. Nhưng trong chế độ tập quyền thì những quyền hạn này có thể bị vua lấy đi bất cứ lúc nào. Đó là bản chất của nhà nước chuyên chế, một dạng cổ điển của chế độ tập quyền có phân chia trách nhiệm, thực hiện thông qua các hình thức phân công, phân cấp, ủy quyền.

Nguyên tắc tập quyền XHCN có nguồn gốc từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với yêu cầu xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản. Lấy hình mẫu từ Công xã Pari năm 1871, C.Mác phân tích và cho rằng đây là một mô hình tổ chức quyền lực nhà nước kiểu mới, cho phép chính quyền tập trung vào tay giai cấp công nhân và xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản. Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công, trước nhu cầu xây dựng, củng cố nhà nước chuyên chính vô sản, V.I.Lênin áp dụng tư tưởng của C.Mác trong thực tế bằng cách lập ra các Xô-viết - những cơ quan đại diện dân cử, tập trung trong tay cả quyền lập pháp, quyền kiểm soát việc chấp hành các pháp luật, đổng thời trực tiếp thực hiện pháp luật thông qua các uỷ viên.

Việc tập trung quyền lực nhà nước vào một cơ quan đại diện dân cử được cho là giúp bảo đảm tính thống nhất của quyền lực và nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặc dù vậy, do quyền lực luôn có nguy cơ bị tha hoá, tập trung quyền lực dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, trì trệ và lạm quyền do thiếu giám sát, kiểm soát nội bộ. Hậu quả là hiệu năng quản lý của bộ máy nhà nước thấp, tham nhũng phố biến, các quyền con người, quyền công dân bị vi phạm.

Để khắc phục hạn chế của nguyên tắc tập quyền, từ trước đến nay các nhà nước XHCN đã cố gắng áp dụng nhiều biện pháp như thiết lập hệ thông cơ quan viện kiểm sát, xây dựng một cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp...nhưng thực tế cho thấy những biện pháp này rất ít hiệu quả.