>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi một vài ý kiến xung quanh vấn đề xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với ba nội dung chủ yếu sau đây:
1. Những nguyên tắc cơ bản nào cần tuân thủ khi xác định giới hạn hợp lý của sự can thiệp từ phía Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng?
Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc xác định giới hạn can thiệp hợp lý từ phía Nhà nước đối với hoạt động giao dịch ngân hàng nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại, chúng tôi cho rằng muốn xác định được ranh giới này cần phải quán triệt và tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ mô đối với hoạt động kinh tế nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng; còn những hoạt động mang tính vi mô, vốn dĩ là công việc của các chủ thể kinh tế (ở đây ngụ ý các ngân hàng thương mại) thì để cho họ tự quyết định và tự chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm kinh tế theo sự dẫn dắt của các quy luật thị trường.
Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động giao dịch của các ngân hàng, phải xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, có tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn đương đại. Mọi hành vi sao chép một cách máy móc các mô hình quản lý của nước ngoài mà không tính đến hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của Việt
Nam sẽ là không thích hợp và thậm chí còn có thể gây ra những hậu quả vô cùng bất lợi cho nền kinh tế và xã hội.
Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài - Ảnh minh họa
Nguyên tắc thứ ba: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào kinh tế, trong đó có hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải nhằm thoả mãn các mục tiêu cơ bản về kinh tế, chính trị và xã hội theo định hướng XHCN như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra (Đảng Cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
Nguyên tắc thứ tư: Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng bằng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau (chẳng hạn như công cụ pháp luật, các chính sách và hệ thống chương trình, kế hoạch định hướng…) nhưng các biện pháp và công cụ này không được gây cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng mà Việt Nam đã tham gia hoặc cam kết sẽ tham gia, cũng như không cản trở quyền tự do kinh doanh của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại ngân hàng.
Nguyên tắc thứ năm:Tiêu chí xác định giới hạn hợp lý cho hành vi can thiệp của Nhà nước vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng là hậu quả của sự can thiệp đó phải là cho kinh tế tăng trưởng bền vững; hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả; các chủ thể kinh tế thoả mãn được lợi ích của mình khi giao dịch với ngân hàng; nền kinh tế và đời sống xã hội không gặp phải các rắc rối và những biến động bất lợi; xu hướng hội nhập quốc tế không bị cản trở và ngày càng được thúc đẩy.
2. Nhà nước cần sử dụng những phương thức can thiệp như thế nào đối với hoạt động giao dịch thương mại của ngân hàng để được xem là hợp lý?
Xuất phát từ nền tảng tư tưởng là những nguyên tắc cơ bản nêu trên, chúng tôi cho rằng giới hạn can thiệp hợp lý của Nhà nước đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, có thể được xác định theo những nội dung (phương thức) cơ bản sau đây:
Một là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng bằng việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý an toàn và hiệu quả cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch thương mại của ngân hàng. Đây là phương thức can thiệp có tính phổ biến nhất, hiệu quả nhất và được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng bằng hệ thống pháp luật sẽ chỉ phát huy hiệu quả tích cực khi hệ thống pháp luật này tỏ ra đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi và tính hiệu quả cao trong quá trình thực hiện. Để đảm bảo tính hiệu quả của phương thức can thiệp này, Nhà nước không những phải tiến hành cải cách hệ thống pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động giao dịch thương mại của ngân hàng mà còn phải đề cao việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là cho các nhà kinh doanh. Chẳng hạn, Nhà nước cần thống nhất các quy định pháp luật về chủ thể giao dịch, pháp luật về hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch… nhằm tạo ra tính thống nhất và đồng bộ cho hệ thống pháp luật hiện hành, trên cơ sở đó tạo ra tính khả thi và hiệu quả cho hệ thống pháp luật trong quá trình điều chỉnh các giao dịch pháp lý trong hoạt động kinh tế nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, để thể hiện rõ giới hạn hợp lý của việc Nhà nước can thiệp bằng pháp luật đối với giao dịch thương mại của ngân hàng, Nhà nước cần quy định rõ những việc gì bị cấm thực hiện đối với chủ thể kinh tế là ngân hàng thương mại trong qúa trình giao dịch, đồng thời cũng quy định rõ những việc gì Chính phủ được phép làm hoặc phải làm vì nhu cầu bảo đảm lợi ích chung và trật tự công cộng. Sự phân định ranh giới giữa hành vi của Chính phủ với hành vi của các chủ thể kinh tế (ngân hàng thương mại) trong quá trình giao dịch thương mại với khách hàng cần phải được làm rõ và được thể hiện một cách minh bạch trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Hai là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua việc hoạch định và thực hiện các chương trình, kế hoạch định hướng có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Đây là phương thức can thiệp thường được Chính phủ các nước phát triển sử dụng để điều tiết ở tầm vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Theo phương thức này, Chính phủ - với tư cách là nhà quản lý vĩ mô cần chú trọng đến việc xây dựng các chương trình, dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng, chẳng hạn như chương trình, kế hoạch cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng tách các ngân hàng chính sách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại. Mặt khác, Chính phủ có thể điều tiết gián tiếp đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua việc xây dựng và triển khai các dự án đầu tư tài chính, với sự tham gia tài trợ của các ngân hàng. Bằng cách này, Chính phủ không những giúp các ngân hàng có cơ hội tiếp cận với các dự án đầu tư lớn nhằm nâng cao năng lực quản trị, điều hành dự án đầu tư theo phương pháp tiên tiến và công nghệ ngân hàng hiện đại, mà còn tạo cơ hội cho các ngân hàng mở rộng thị phần của mình ở trong nước và quốc tế. Trên thực tế, đôi khi các ngân hàng gặp phải tình huống khó khăn là huy động vốn dễ dàng nhưng không thể cho vay được do sợ đối mặt với khách hàng có nhu cầu vay ít hoặc họ không thể vay được vì không thoả mãn các điều kiện tín dụng khắt khe của các ngân hàng đưa ra. Trong những trường hợp như vậy, việc Chính phủ tạo ra các dự án đầu tư tài chính mới để kêu gọi sự tham gia tài trợ của các doanh nghiệp trọng điểm; chương trình kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; chương trình kế hoạch xoá đói giảm nghèo cho các khu vực dân cư vùng sâu, vùng xa; chương trình xuất khẩu hàng hoá mà Việt Nam có thế mạnh… sẽ là giải pháp hỗ trợ hiệu quả nhất cho các ngân hàng trước những tình huống khó khăn do yếu tố thị trường đem lại.
Ba là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách điều hành lãi suất tín dụng, chính sách thuế khoá, chính sách ngoại hối đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng… Về lý thuyết, mỗi loại chính sách nói trên có mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với quá trình giao dịch thương mại của các ngân hàng. Mặt khác, giữa các chính sách này cũng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá trình điều tiết hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế. Điều quan trọng nhất khi sử dụng các chính sách này để can thiệp hợp lý vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng là Chính phủ phải nhận biết được vai trò tác dụng và mức độ tác động của từng loại chính sách đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng để đưa ra các nội dung hợp lý trong từng loại hình chính sách đó. Trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh doanh ngân hàng bằng các chính sách kinh tế vĩ mô tỏ ra có nhiều hiệu quả hơn so với các biện pháp quản lý hành chính thuần tuý. Trong số các chính sách kinh tế này, chính sách tiền tệ quốc gia được coi là quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất đối với quá trình giao dịch thương mại của các ngân hàng. Việc Chính phủ tổ chức thực thi chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ truyền thống do Ngân hàng TW thực hiện như lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, nghiệp vụ mua bán ngoại hối… có thể làm cho hoạt động giao dịch của các ngân hàng được mở rộng hơn hoặc thu hẹp lại, tuỳ theo ý muốn của Nhà nước trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền trong nước. Ngoài ra, chính sách thuế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các chi phí giá thành sản phẩm dịch vụ tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại, chẳng hạn như việc tăng, giảm thuế đối với các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng hoặc giảm chi phí kinh doanh, từ đó mà ảnh hưởng đến số lượng khách hàng và số lượng, chất lượng các giao dịch sẽ được ngân hàng cung ứng. Thông qua đó Chính phủ tiến hành kiểm soát hữu hiệu hơn đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng trong nền kinh tế.
Bốn là, Nhà nước can thiệp vào hoạt động giao dịch của các ngân hàng trong nền kinh tế thông qua việc thành lập và trực tiếp điều hành các ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong thời đại ngày nay, người ta thừa nhận việc Nhà nước đứng ra thành lập các tổ chức kinh tế bằng nguồn vốn của mình để những tổ chức này trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh, như là một phương thức thực hiện vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng bằng cách thành lập và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước được được coi là một hình thức can thiệp hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, tính hợp lý và hiệu quả cuả hình thức can thiệp này đến đâu còn phụ thuộc vào chính sách đối xử của Nhà nước như thế nào đối với ngân hàng thương mại Nhà nước, so với các loại hình tổ chức tín dụng phi Nhà nước. Về nguyên tắc, chúng ta có thể chấp nhận việc Nhà nước đầu tư nhiều vốn hơn cho các ngân hàng thương mại Nhà nước hoặc củng cố năng lực hoạt động của các ngân hàng này bằng chính sách quản trị, điều hành năng động, có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công nghệ ngân hàng. Song, trong thời đại ngày nay với yêu cầu xây dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thì Nhà nước không thể vì mục đích tạo vai trò chủ đạo cho các ngân hàng thương mại Nhà nước mà thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa ngân hàng thươngmại Nhà nước với các tổ chức tín dụng phi Nhà nước, nhằm tạo ra các lợi thế hơn cho ngân hàng thương mại Nhà nước trong quá trình thực hiện các giao dịch ngân hàng. Có thể nói, ngày nay nhu cầu tự do kinh doanh và nhu cầu được đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong quá trình giao dịch đã trở thành một thuộc tính tự nhiên của bất kỳ nền kinh tế nào vận hành theo cơ chế thị trường, kể cả đối với nền kinh tế thị trường ở đó có sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động vi mô cua các doanh nghiệp Nhà nước trong đó có ngân hàng thương mại Nhà nước, chỉ nên dừng lại ở mức như là sự đối xử hợp lý của chủ doanh nghiệp đầu tư vốn với doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư. Mọi hành động làm thay của Nhà nước cho doanh nghiệp Nhà nước (ở đây được hiểu là ngân hàng thương mại Nhà nước) trong quá trình giao dịch với khách hàng sẽ không còn thích hợp với yêu cầu tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. như một lẽ tự nhiên và công bằng, Nhà nước nên thể hiện sự can thiệp của mình vào hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng việc không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của chính các ngân hàng thương mại Nhà nước trong môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Phương thức can thiệp này không chỉ đem lại nguồn thu nhập cho Nhà nước từ việc đầu tư vào hoạt động kinh tế của xã hội mà quan trọng hơn, nó còn là giải pháp điều tiết hợp lý và rất hiệu quả đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng nói chung trong nền kinh tế thị trường. Sự vững mạnh dần lên của các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian gần đây (ví dụ điển hình là sự kiện xếp hạng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nằm trong số 10 ngân hàng có chất lượng cao trong khu vực) theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng tốt đến việc nâng cao chất lượng và số lượng giao dịch thương mại nói chung của các ngân hàng trong toàn hệ thống tín dụng. Điều này cho thấy, muốn thúc đẩy nhanh chóng và có hiệu quả quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước nhà trong giai đoạn hiện nay thì nhất thiết phải coi việc cải cách hệ thống ngân hàng Việt
Nam là khâu quan trọng tâm và then chốt. Tuy nhiên, muốn cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam một cách căn bản, toàn diện và hợp lý thì phải bắt đầu từ việc cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, trong đó việc cải cách các ngân hàng thương mại Nhà nước phải được coi là khâu đột phá. Về vấn đề này, G.S Harutoshi Kagoshima, Đại học Chuo, trong bài nghiên cứu cho Dự án “chương trình trợ giúp cải cách các chính sách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam ” đã nhận định: “Cải cách hệ thống tài chính ở Việt Nam liên quan mật thiết đến chủ đề trọng tâm của cải cách kinh tế - cải cách các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước” và “trong tương lai, nền kinh tế Việt Nam tuỳ thuộc vào sự thành công của cải cách các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước” (Tập thể tác giả, “Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam”).
3. Mức độ can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại của các ngân hàng như thế nào là hợp lý?
Trong lịch sử phát triển của hoạt động ngân hàng trên thế giới, đã từng có giai đoạn Nhà nước can thiệp rất sâu vào hoạt động ngân hàng thông qua những quy định có tính chất cấm đoán của Nhà nước (Lê Vinh Danh, Tiền và hoạt động ngân hàng). Tuy nhiên, trải qua thời gian dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của các học thuyết kinh tế, vai trò và mức độ can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động giao dịch ngân hàng cũng liên tục thay đổi, có khi giảm, có lúc tăng. như một tất yếu lịch sử, xu hướng chung hiện nay trên thế giới là Nhà nước tìm cách giảm dần sự can thiệp trực tiếp của mình vào hoạt đọng kinh tế bằng công cụ hành chính và thay vào đó là việc sử dụng nhiều hơn các công cụ kiểm soát gián tiếp, chẳng hạn như các chương trình, kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế vĩ mô…
Ở nước ta, do nhận thức rõ đây là xu hướng tất yếu và tính quy luật, tính phổ biến đối với mọi quốc gia lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện từng bước việc hạn chế dần sự can thiệp của Nhà nước đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng với một lộ trình thích hợp cho đến khi đạt tới mức độ hợp lý cần thiết. Theo lộ trình này, trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi kinh tế, Nhà nước có thể tiếp tục duy trì sự can thiệp mang tính chất bảo hộ cho nền kinh tế và các ngân hàng trong nước, chẳng hạn như việc quy định lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại ấn định lãi xuất cụ thể đối với khách hàng; cho phép Chính phủ được quyền chỉ định một số ngân hàng thương mại Nhà nước phải cho vay không có bảo đảm đối với một số khách hàng thuộc diện chính sách ưu đãi của Nhà nước, trên cơ sở cam kết của Chính phủ về việc xử lý rủi ro tín dụng; hạn chế có kiểm soát sự tham gia của các ngân hàng trong nước. Đến giai đoạn sau, khi nền kinh tế thị trường đã hình thành rõ nét và được vận hành ổn định thì sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng sẽ tiếp tục được hạn chế, theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh và tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho các ngân hàng thương mại thuộc mọi hình thức sở hữu, đồng thời tuân thủ triệt để các cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập quốc tế về ngân hàng. Việc tiếp tục giảm dần sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng trong huy động vốn và cho vay; tách bạch rõ ràng giữa tín dụng vì mục tiêu thương mại và chuyển nghĩa vụ cho vay theo chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại Nhà nước bằng cách trao nghĩa vụ đó cho các ngân hàng chính sách mới được thành lập bởi Chính phủ; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng chính sách mới được thành lập bởi Chính phủ; đối xử công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài trên cơ sở cho phép rộng rãi các ngân hàng nước ngoài được thực hiện những hoạt động dịch vụ tài chính - ngân hàng trên lãnh thể Việt Nam theo lộ trình hội nhập cam kết trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương; khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thương mại Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài bằng chính sách thuế và chính sách ngoại hối hợp lý….
Tuy nhiên, theo nhận thức của chúng tôi, những vấn đề nêu trên chỉ là sự phản ánh cụ thể của quấ trình điều chỉnh vai trò, chức năng kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động giao dịch của các ngân hàng như thế nào là hợp lý, thực chất lại nằm ở vấn đề phân chia trách nhiệm hợp lý giữa Chính Phủ và chủ thể kinh tế là ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực (khía cạnh) liên quan đến giao dịch thương mại của ngân hàng, chẳng hạn như khía cạnh lãi suất; giới hạn quyền lựa chọn khách hàng để giao dịch; các biện pháp bảo đảm an toàn cho giao dịch; các biện pháp bảo đảm an toàn cho giao dịch… Xuất phát từ nhận thức như vậy, chúng tôi cho rằng sự phân chia trách nhiệm hợp lý giữa Chính phủ và các doanh nghiệp ngân hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, bao gồm hai nội dung cơ bản sau đây:
- Với tư cách là chủ thể quản lý, Chính phủ có trách nhiệm xây dựng môi trường thuận lợi, đầy đủ và an toàn nhất cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch thương mại của ngân hàng. Khái niệm môi trường ở đây được hiểu bao gồm các thành tố cơ bản như môi trường pháp lý, môi trường chính trị và an ninh xã hội, môi trường khoa học và công nghệ… trong đó, môi trường pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý và số phận thực tế của các giao dịch thương mại của ngân hàng. Mặt khác, do hoạt động giao dịch thương mại của các ngân hàng vốn là lĩnh vực kinh doanh có tính đặc thù nên vai trò kiểm soát, quản lý của Chính phủ trong lĩnh vực này cũng cần phải được thực hệin theo những phương thức đặc thù. Theo phương thức này, Chính phủ sẽ và chỉ nên thực hiện vai trò kiểm soát hoạt động giao dịch của các ngân hàng chủ yếu thông qua cơ quan đặc biệt do mình thành lập là Ngân hàng TW (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), bằng việc thực hiện các chức năng của cơ quan đặc biệt này.
- Với tư cách là chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp ngân hàng có quyền quyết định tối cao trong quá trình giao dịch với khách hàng và tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch. Trách nhiệm này bao gồm các quyền năng chủ yếu như tự do lựa chọn lĩnh vực và đối tượng giao dịch; tự do lựa chọn khách hàng giao dịch, tự do quyết định giá cả của giao dịch và tự do lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp cho mình phát sinh từ giao dịch. Nói khác đi, việc xác định trách nhiệm hợp lý của các doanh nghiệp ngân hàng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam trong quá trình giao dịch thương mại - xét trong mốt tương quan với trách nhiệm của Chính phủ, thực chất là xác định nội hàm của quyền tự do kinh doanh của ngân hàng thương mại với tư cách là một chủ thể kinh tế.
Việc xác định chính xác nội hàm của quyền tự do kinh doanh của các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nhận thức đúng đắn về bản chất pháp lý của các giao dịch thương mại của ngân hàng nói chung và các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng nói riêng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Tác giả: Nguyễn Văn Tuyến
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích nghiên cứu, giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:
1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;
2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;
3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;
4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;