Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162

1. Hiện có bao nhiêu ủy ban giám sát việc thực hiện các công ước quốc tế về nhân quyền?

Có 09 công ước được coi là điều ước quốc tế căn bản về nhân quyền của Liên Hợp Quốc, trong đó có một công ước mới có hiệu lực kể từ ngày 23/12/2010 (Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức đưa đi mất tích). Các công ước này được giám sát thực hiện bởi các ủy ban thành lập theo quy định của các công ước (còn gọi là các ủy ban công ước). Cụ thể, các ủy ban công ước đang hoạt động bao gồm:

1) Ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc, 1965);

2) Ủy ban nhân quyền (thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966);

3) Ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Công ước quốc tế về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979);

4) Ủy ban chống tra tấn (thành lập theo Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác, 1987);

5) Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá (thành lập theo một nghị quyết của ECOSOC);

6) Ủy ban về quyền trẻ em (thành lập theo Công ước về quyền trẻ em, 1989);

7) Ủy ban bảo vệ quyền của tất cả những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ, 1990);

8) Ủy ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo Công ước về quyền của người khuyết tật, 2007).

9) Ủy ban về chống cưỡng bức đưa đi mất tích (thành lập theo Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức đưa đi mất tích, 2006)

Ngoài 9 uỷ ban trên, còn một Ủy ban khác có tên là: Tiểu ban về Ngăn ngừa tra tấn (the Subcommittee on Prevention of Torture and other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment - SPT). Tiểu ban này là một dạng cơ quan công ước mới trong hệ thống nhân quyền Liên họp quốc. Cơ quan này được thành lập từ tháng 2 năm 2007 theo Nghị định thư tuỳ chọn bổ sung Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 8 năm 2002 và có hiệu lực từ tháng 6 năm 2006). Nó tập trung vào việc đưa ra những sáng kiến bền vững và chủ động để phòng ngừa tra tấn và những hình thức đối xử tàn bạo. Cơ quan này hiện có 25 thành viên là các chuyên gia độc lập, vô tư thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới, do các quốc gia thành viên CAT bầu ra, có nhiệm kỳ 4 năm.

2. Các Úy ban công ước được thành lập như thếnào?

2.1. Thành lập các Ủy ban Công ước

Các Ủy ban công ước bao gồm những chuyên gia được thừa nhận là có uy tín, đạo đức và năng lực trong các lĩnh vực của từng công ước. Những chuyên gia này được lựa chọn thông qua bỏ phiếu từ những người được các quốc gia thành viên đề cử, tuy nhiên, khi trở thành thành viên các ủy ban thì họ hoạt động với tư cách cá nhân chứ không phải với tư cách đại diện cho các quốc gia đã đề cử mình.

Số lượng thành viên của các ủy ban công ước được quy định trong mỗi công ước là khác nhau, nhưng thông thường không ít hơn 10 người và không nhiều hơn 30 người.

2.2. Các ủy ban công ước có những chức năng, nhiệm vụ cụ thể gì?

Chức năng, nhiệm vụ của các ủy ban công ước có sự khác nhau nhất định, căn cứ vào quy định cụ thể của mỗi công ước, tuy nhiên, nhìn chung các ủy ban này cùng có những chức năng sau đây:

Một là, xem xét báo cáo của các quốc gia thành viên: Thông thường, các quốc gia thành viên những công ước được liệt kê ở trên phải đệ trình báo cáo đầu tiên sau một hoặc hai năm kể từ khi công ước có hiệu lực đối với quốc gia đó. Sau đó, các quốc gia tiếp tục phải nộp báo cáo theo định kỳ (thông thường là bốn hoặc năm năm) về những biện pháp đã được áp dụng để thực hiện công ước. Các báo cáo phải nêu ra những biện pháp pháp lý, hành chính và tư pháp đã được quốc gia thành viên áp dụng để thực hiện những quy định của công ước, đồng thời đề cập đến những thuận lợi, khó khăn mà quốc gia đã và đang đối mặt trong việc thực hiện công ước.

Hai là, bên cạnh báo cáó của các quốc gia thành viên, các ủy ban công ước cũng tiếp nhận thông tin về tinh hình nhân quyền của các quốc gia từ những nguồn khác, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan Liên Họp Quốc, các tổ chức liên chính phủ khác, các viện nghiên cứu và qua báo chí. Từ những thông tin thu được, các ủy ban xem xét báo cáo cùng với đại diện của quốc gia thành viên. Trên cơ sở đối thoại xây dựng, các ủy ban công bố những nhận xét và khuyến nghị về những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện công ước tại các quốc gia thành viên.

Ba là, xem xét khiếu nại của các quốc gia và cá nhân: Bên cạnh thủ tục báo cáo, một số ủy ban công ước còn được giao chức năng giám sát phụ thông qua ba cơ chế khác nhau, đó là: thủ tục điều tra (inquiry), xem xét khiếu kiện liên quốc gia và xem xét khiếu nại cá nhân.

Hiện tại có 06 ủy ban công ước là: ủy ban nhân quyền, ủy ban chống phân biệt chủng tộc, ủy ban chống tra tấn, ủy ban xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ủy ban bảo vệ người lao động nhập cư và các thành viên gia đình họ và ủy ban về chống cưỡng bức đưa đi mất tích có thể nhận và xem xét khiếu kiện từ các cá nhân - những người cho rằng các quyền của họ theo công ước bị quốc gia vi phạm. Tuy nhiên, cần chú ý là một khiếu nại cá nhân chỉ có thể được tiếp nhận sau khi thoả mãn một số điều kiện, trong đó có hai điều kiện tiền đề đó là: (i) Quốc gia bị khiếu nại phải là thành viên của công ước; và (ii) Quốc gia bị khiếu nại đã công nhận thẩm quyền của ủy ban công ước được tiếp nhận và xem xét các khiếu nại cá nhân.

Bốn là, đưa ra những bình luận/khuyến nghị chung: Các cơ quan công ước cũng có thẩm quyền đưa ra những bình luận/khuyến nghị chung để giải thích nội dung các quyền và hướng dẫn các biện pháp thực hiện công ước mà ủy ban có trách nhiệm giám sát. Các bình luận/khuyến nghị chung thường tập trung giải thích chi tiết những chuẩn mực và biện pháp mà các quốc gia phải tuân thủ và thực hiện để hoàn thành nghĩa vụ theo công ước. Đây là những tài liệu rất quan trọng để bảo đảm các quyền nêu trong các công ước được hiểu đúng và qua đó đánh giá mức độ tuân thủ công ước của các quốc gia. Hiện nay, hầu hết các ủy ban công ước đều ban hành các bình luận hay khuyến nghị chung, ngoại trừ hai ủy ban về quyền của những người khuyết tật và Uỷ ban về chống đưa đi mất tích

Năm là, cụ thể, số bình luận/khuyến nghị chung được ban hành tính đến tháng 10/2012 của ủy ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá là 21; của ủy ban nhân quyền là 34; của ủy ban chống phân biệt chủng tộc là 34; của ủy ban loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ là 28; của ủy ban chống tra tấn là 02; của ủy ban về quyền trẻ em là 13; ủy ban bảo vệ người lao động nhập cư là 01.

3. Việc xem xét báo cáo quốc gia của các Ủy ban công ước diễn ra như thế nào?

Báo cáo quốc gia phải được đệ trình lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc bằng một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc (tiếng Ảrập, tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga), sau đó được Ban Thư ký lưu chiểu và dịch ra ngôn ngữ làm việc chính thức của mỗi ủy ban công ước. Trước phiên họp của ủy ban để xem xét báo cáo quốc gia, một nhóm làm việc do ủy ban thiết lập sẽ triệu tập một phiên họp riêng với các tổ chức, cơ quan thuộc hệ thống Liên Họp Quốc và các cơ quan có thẩm quyền khác nhằm thu thập thêm thông tin cho ủy ban. Sau phiên họp này, ủy ban sẽ lập một danh mục các vấn đề và các câu hỏi, chuyển cho quốc gia báo cáo nhằm giúp quốc gia đó nắm được các vấn đề mà ủy ban sẽ ưu tiên đề cập trong khi xem xét báo cáo của quốc gia. Cũng từ danh mục các vấn đề và câu hỏi đó, ủy ban sẽ yêu cầu quốc gia báo cáo cung cấp những thông tin bổ sung bằng văn bản trước phiên họp. Cách làm việc này tạo thuận lợi cho các quốc gia trong việc chuẩn bị bảo vệ báo cáo tại phiên họp của ủy ban.

Việc xem xét các báo cáo quốc gia không phải là một quá trình tố tụng mà là một cuộc đối thoại xây dựng giữa các uỷ ban công ước và các quốc gia thành viên. Để bảo đảm tinh thần đối thoại xây dựng với ủy ban, đại diện của quốc gia báo cáo phải được tham dự các phiên họp xem xét báo cáo của nước mình.

Thông thường trình tự tiến hành các phiên họp này như sau:

  1. Đại diện quốc gia báo cáo được mời trình bày tóm tắt bản báo cáo và hồi đáp danh mục các vấn đề mà nhóm làm việc trước phiên họp nêu ra;
  2. Chủ tịch ủy ban yêu cầu báo cáo viên (country rapporteurs) hay các chuyên gia chuyên trách nghiên cứu tình hình của quốc gia đó (country task force members) cung cấp thông tin tổng quan liên quan đến báo cáo của quốc gia;
  3. Chủ tịch ủy ban mời các thành viên ủy ban đặt câu hỏi hoặc bình luận về các khía cạnh cụ thê’ của báo cáo;
  4. Đại diện quốc gia được mời trả lời các cầu hỏi, bình luận của các thành viên ủy ban;
  5. Chủ tịch ủy ban tóm tắt những nhận xét về báo cáo, ý kiến thảo luận và những gợi ý, khuyến nghị đưa ra tại phiên họp;
  6. Đại diện quốc gia được mời phát biểu lần cuối.

Sau khi đối thoại với quốc gia thành viên, ủy ban sẽ đưa ra những nhận xét, bình luận chính thức, bao gồm những gợi ý hay khuyến nghị bằng văn bản trong một cuộc họp kín. Cấu trúc của văn bản này bao gồm: lời mở đầu; những khía cạnh tích cực và những thành tựu đã đạt được; những yếu tố thuận lợi và khó khăn cản trở việc thực hiện công ước; những quan ngại chính, gợi ý và khuyến nghị cho quốc gia thành viên. Sau khi được thông qua, các kết luận và khuyến nghị sẽ được chuyển cho quốc gia báo cáo trong vòng 24 giờ và được đọc công khai tại phiên họp với sự có mặt của đại diện quốc gia. Văn bản này sau đó cũng được công bố với báo chí và đưa lên trang web của cơ quan Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập