Phân biệt hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” ở tội cướp tài sản Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 với “hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực” ở tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015. Sự khác nhau “hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” ở tội cướp tài sản với “hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực” ở tội cưỡng đoạt tài sản.

- Về cường độ tấn công, đe dọa:

+ Đối với tội cưóp tài sản hành vi: “Đe dọa dùng vũ lực” phải có dấu hiệu “ngay tức khắc” nghĩa là làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được dẫn đến “tê liệt ý chí”.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản hành vi: “Đe dọa sẽ dùng vũ lực” không có dấu hiệu “ngay tức khắc” nạn nhân vẫn có thời gian suy nghĩa lựa chọn yêu cầu của đối tượng thực hiện tội phạm đưa ra.

+ Đối với tội cướp tài sản cường độ đe dọa rất mãnh liệt làm cho người bị đe dọa thấy rằng việc dùng vũ lực sẽ được thực hiện ngay nếu mình có hành vi cản trở, bản thân họ sẽ không hoặc khó tránh khỏi sự đe dọa đó.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản cường độ đe dọa ít mãnh liệt hơn.

 

* Về thời gian chiếm đoạt tài sản:

+ Đối với tội cướp tài sản chỉ sự nhanh chóng về thời gian, việc dùng vũ lực sẽ xảy ra ngay sau hành vi đe dọa nếu bị kháng cự.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản không nhanh chóng về thời gian. Có thể không được thực hiện ngay sau hành vi đe dọa mà sẽ được thực hiện trong tương lai.

 

* Về mức độ tác động đến ý chí kháng cự của người bị đe dọa:

+ Đối với tội cưóp tài sản làm tê liệt hoàn toàn ý chí kháng cự của người bị đe dọa, nên họ không còn cách nào khác là buộc phải trao tài sản của mình cho người phạm tội.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản không chỉ có khả năng khống chế ý chí của người bị đe dọa, họ còn có thời gian và điều kiện để lựa chọn những xử sự khác ngoài việc trao tài sản cho người phạm tội.

 

* Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi:

+ Đối với tội cướp tài sản có tính chất mức độ nguy hiểm cao.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản có tính chất, mức độ nguy hiểm thấp hơn.

Luật Minh Khuê phân tích chi tiết như sau:

1. Khái quát chung về Tội cướp tài sản và Tội cưỡng đoạt tài sản 

Đối với tội cướp tài sản:

- Căn cứ pháp lý: Điều 168 Bộ luật hình sự 2015

Dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), cá nhân có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi đó được xem là cướp tài sản.

Như vậy, dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản là hành vi “Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản". Tức là người phạm tội đã thực hiện dùng sức mạnh vật chất tác động vào cơ thể của nạn nhân nhằm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, làm cho ý trí của nạn nhân bị tê liệt không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. 

Hiện nay, tội cướp tài sản có mức hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân.

Đối với tội cưỡng đoạt tài sản:

- Căn cứ pháp lý: Điều 170 Bộ luật hình sự 2015

Theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), cưỡng đoạt tài sản được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. 

Như vậy, dấu hiệu đặc trưng của tội chiếm đoạt tài sản là hành vi “Đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản”. Tức là người phạm tội có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực là tại một thời điểm trong tương lai, không có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc. Trong trường hợp này, người bị đe dọa vẫn có một khoảng thời gian để cân nhắc, suy nghĩ, tìm biện pháp ngăn chặn.

Hiện nay, tội cưỡng đoạt tài sản có mức hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.

 

2. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là gì?

Có thể nói, hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay lập tức. Tức là có những sự đe dọa làm cho người bị hại thấy rằng nguy hiểm sẽ xảy ra ngay và họ không thể tránh khỏi nếu không giao tài sản ngay tức khắc. Người bị đe dọa không có điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc hay tìm biện pháp ngăn chặn đối với hành vi mà người phạm tội đang đe dọa, sức mãnh liệt của sự đe dọa làm cho ý chí chống cự của người bị đe dọa tê liệt.

Mục đích của hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm buộc người bị tấn công phải sợ hãi và tin rằng nếu không để cho lấy tài sản thì tính mạng và sức khỏe sẽ bị nguy hại. Ở đây thông thường được kết hợp giữa hành vi sử dụng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo, để tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực.

Ví dụ: Người phạm tội kề dao vào cổ, dí súng vào bụng và dùng những lời lẽ đe dọa gay gắt tác động trực tiếp vào tâm lý của người bị hại, bắt người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức. 

 

3. Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực là gì?

Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi được thực hiện bởi lời nói, cử chỉ hoặc hành động, làm cho người bị đe doạ sợ rằng nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sau đó sẽ bị đánh đập, bị đau đớn về thể xác. Tuy nhiên, dù được thực hiện bằng hình thức nào thì việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Tức là sau khi đe dọa thì việc dùng vũ lực có thể xảy ra tại một thời điểm sau đó, không có nguy cơ xảy ra ngay. Như vậy đối với hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực, người bị đe dọa vẫn có một khoảng thời gian để cân nhắc, suy nghĩ, tìm biện pháp ngăn chặn.

Trong trường hợp, người bị hại bị đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại lại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Theo đó, việc đe dọa sẽ dùng vũ lực có thể thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. 

Ví dụ: 

- Đe dọa trực tiếp: Người phạm tội có hành vi dọa bằng lời nói, cử chỉ, hành động… trực tiếp, công khai với nạn nhân nhưng không có dấu hiệu sẽ dùng vũ lực ngay mà sẽ có một khoảng thời gian để người bị hại suy nghĩ, cân nhắc;

- Đe dọa gián tiếp: Người phạm tội có hành vi đe dọa thông qua các hình thức như tin nhắn, điện thoại… mà không trực tiếp gặp nạn nhân.

 

4. Sự khác nhau giữa hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” với “đe dọa sẽ dùng vũ lực”

- Về cường độ tấn công, đe dọa:

+ Đối với tội cưóp tài sản thì hành vi “đe dọa dùng vũ lực” phải có dấu hiệu “ngay tức khắc” nghĩa là làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được dẫn đến “tê liệt ý chí”. Theo đó, cường độ đe dọa rất mãnh liệt làm cho người bị đe dọa thấy rằng việc dùng vũ lực sẽ được thực hiện ngay nếu mình có hành vi cản trở, bản thân họ sẽ không hoặc khó tránh khỏi sự đe dọa đó.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi “đe dọa sẽ dùng vũ lực” không có dấu hiệu “ngay tức khắc”, tức là nạn nhân vẫn có thời gian suy nghĩa đưa ra lựa chọn đối với yêu cầu của đối tượng thực hiện tội phạm đưa ra. Bên cạnh đó, cường độ đe dọa ít mãnh liệt hơn so với hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.

- Về thời gian chiếm đoạt tài sản:

+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" chỉ sự nhanh chóng về thời gian, việc dùng vũ lực sẽ xảy ra ngay lập tức sau hành vi đe dọa nếu bị kháng cự.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" không nhanh chóng về thời gian. Có thể không được thực hiện ngay sau hành vi đe dọa mà sẽ được thực hiện trong tương lai.

- Về mức độ tác động đến ý chí kháng cự của người bị đe dọa:

+ Đối với tội cưóp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" làm tê liệt hoàn toàn ý chí kháng cự của người bị đe dọa, nên họ không còn cách nào khác là buộc phải trao tài sản của mình cho người phạm tội nếu không muốn bị xâm hại đến tính mạng. 

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" không hoàn toàn có khả năng khống chế ý chí của người bị đe dọa, người bị đe dọa còn có thời gian và điều kiện để lựa chọn những xử sự khác ngoài việc trao tài sản cho người phạm tội.

- Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi

+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" có tính chất mức độ nguy hiểm cao.

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" có tính chất, mức độ nguy hiểm thấp hơn.

- Về cách thức thực hiện hành vi:

+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" được thể hiện dưới các dạng như bằng lời đe dọa gay gắt kèm theo các hành động trực tiếp tác động gây ra nguy hiểm cho người bị đe dọ. Người phạm tội sẵn sàng thực hiện các hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng nạn nhân một cách ngay tức khắc.

Ví dụ: Người phạm tội thường sẽ những lời lẽ đe dọa gay gắt như: "mày không nghe tao, tao sẽ giết...";  dí dao vào cổ, dùng tay bóp cổ; và dạng phổ biến nhất trong thực tiễn hiện nay là kết hợp giữa đe dọa và hành động (vừa dí súng vào đầu và vừa đe dọa nếu mày không nghe tao tao bắn chết ngay).

Như vậy, bằng các hành động quyết liệt trên người phạm tội đã khống chế được ý chí và làm tê liệt ý chí kháng cự lại của nạn nhân. 

+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" đã thể hiện rõ được việc đe dọa không quyết liệt gay gắt như tội cướp tài sản và hành vi sử dụng vũ lực có thể sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định. Hậu quả của hành vi này làm nạn nhân lo sợ nhưng chưa đến mức tê liệt hoàn toàn ý chí kháng cự, phản kháng.

- Đáng lưu ý, giữa thời điểm đe dọa dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực sẽ có một khoảng thời gian nhất định để người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Đây là một trong những điểm cơ bản để phân biệt với đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc của hành vi cướp tài sản.

 

5. Thực tế phân biệt hai hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” với “đe dọa sẽ dùng vũ lực”

Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực được hiểu là chưa tiến hành dùng vũ lực mà chỉ tồn tại hành vi đe dọa, dùng những lời lẽ cử chỉ nhằm tác động vào tâm lý của người bị hại. Trong khi đó, nếu người phạm tội vừa đe doạ, vừa dùng vũ lực (mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà người phạm tội đe doạ người bị hại) thì sẽ vẫn bị coi là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.

Ví dụ: Nguyễn Văn A gặp chị Trần Thị B trên một đoạn đường vắng, ngay lập tức A lao ra chặn chị B lại, A liền túm cổ áo chị B đồng thời rút dao trong người ra dí sát vào cổ chị B rồi dùng những lời lẽ hăm dọa buộc chị B phải cởi dây chuyền, hoa tai đưa cho A ngay nếu không sẽ ra tay với chị B. Hành vi của A phải coi là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Trên thực tế, việc xác định thế nào là đe doạ sẽ dùng vũ lực không khó bằng việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Việc phân biệt hai hành vi này là dấu hiệu rất quan trong để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ sẽ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc được hiểu là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người phạm tội có dùng vũ lực hay không, trong trường hợp người bị hại không giao tài sản lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường, người phạm tội không bao giờ nhận là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để người phạm tội lấy tài sản. Vì vậy để xác định trường hợp người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hay không, ngoài lời khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án như: Không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc xảy ra sự việc; vào công cụ, phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng...

Ví dụ: Trong đêm tối, trên một đoạn đường vắng, một người dùng dao dí vào cổ người khác, yêu cầu người này phải giao tài sản cho mình, nếu không sẽ giết. Ngay lúc đó có tổ tuần tra phát hiện nên bắt được người phạm tội. Trong trường hợp này, dù người phạm tội có khai rằng chỉ có ý định hăm doạ chứ không có ý định dùng vũ lực hay giết người bị hại thì cũng không có căn cứ để tin lời khai của người phạm tội là đúng, mà trường hợp này sẽ phải xác định người phạm tội đã có hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Nếu có bất kỳ vướng mắc nào , quý khách hàng vui lòng liên hệ trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7. Gọi số 1900.6162 hoặc gửi email chi tiết tại: Tư vấn pháp luật qua Email. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác từ quý khách hàng. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khuê. Trân trọng cảm ơn!