1. Khái niệm về vụ án dân sự

Tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự có đề cập đến vụ án dân sự, theo đó các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được gọi chung là vụ án dân sự. Có thể hiểu một cách đơn giản, vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì cá nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Khái niệm về chứng cứ

Căn cứ Điều 93 Bộ Luật tố tụng Dân sự quy định về khái niệm chứng cứ như sau:

"Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp".

Theo Từ điển tiếng Việt, của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1988 thì chứng cứ là “cái cụ thể (như lời nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài liệu, v.v.) tỏ rõ điều gì đó là có thật”. Như vậy, có thể hiểu chứng cứ (theo một nghĩa chung nhất) là những gì có thật, phản ánh sự thật khách quan về một vụ việc và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định.

Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, hành chính hay trong tố tụng dân sự đều có những điểm chung và vừa có tính lý luận sâu sắc, vừa có tính thực tiễn rất cao. Nó là cơ sở quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ án.

Bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng xuất hiện, diễn ra trong thế giới khách quan; do đó, những tình tiết, sự kiện, diễn biến của sự việc dân sự đều tồn tại trong thế giối vật chất, nó đểu để lại các “dấu vết” trong thế giới vật chất với muôn hình, muôn vẻ, nhưng khái quát lại có hai dạng dưới đây:

  • Cấc dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án được phản ánh vào ý thức của con người. Thông qua các biện pháp, các hình thức thu thập chứng cứ để “vật chất” hóa các dấu vết đó dưới những hình thức nhất định; ví dụ: việc lập biên bận ghi lời khai của nhân chứng biết sự việc, chứng kiến sự việc...
  • Các dấu vết vật chất, ví dụ như vật chứng, các giấy biên nhận nợ, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng trong các vụ án tranh chấp đòi nợ...

Các “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án chính là sự phản ánh cắc mặt riêng lẻ của sự thật về vụ án được thu thập theo một trình tự, thủ tục do luật định là căn cứ cho việc xác định sự thật của vụ ấn, nhằm giải quyết đúng đắn Vụ, việc dân sự. Chính vì vậy, Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối

của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũríg như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự’.

Khi đã khẳng định chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, được dùng làm căn cứ để giải quyết đúng đắn vụ áh mới được coi là chứng cứ, thì cũng có nghĩa là những gì không phản ánh đúng sự thật của vụ án dân sự sẽ không được coi là chứng cứ của vụ án đó. Vì vậy, có những tài liệu tuy có tồn tại thật, nhưng nó không phản ánh đúng bản chất của sự việc đó thì không được coi là chứng cứ.

3. Những ví dụ cơ bản về chứng cứ

Ví dụ 1: Trong hồ sơ của cơ quan nhà đất đang quản lý có một tài liệu viết: “nhà bị phá hủy trong chiến tranh”, nhưng sự thật nhà đó chỉ bị sạt mái, hỏng một phần tường, chỉ cần sửa chữa là có thể tiếp tục ỏ được. Như vậy, thực tế nhà chỉ bị hư hỏng, nhưng tài liệu ghi: “nhà bị phá huỷ trong chiến trành” đã phản ánh không thật chính xác, không đúng sự thật, nó không được coi là chứng cứ của vụ án.

Ví dụ 2: A là người mua nhà và nhờ B là em đứng tên trong giấy tờ sở hữu, nhưng do tham lam nên B đã khai nhà là của B, do B bỏ tiền mua cho Ạ ở nhờ và kiện đòi A trả nhà. B đã xuất trình giấy tờ sở hữu nhà đứng tên B làm căn cứ cho yêu cầu của mình, còn A bác bồ lời khai của B và xuất trình giấy uỷ quyền cho B đứng tên sỏ hữu nhà hộ A, đồng thời ngưòi bán nhà và các nhân chứng chứng kiến việc mua bần đều khai như lòi của A. Như vậy, trong trường hợp này những nội dung ghi B là chủ sở hữu nhà thể hiện trong giấy sở hữu nhà đứng tên B không được coi là chứng cứ của vụ án, vì nếu thừa nhận những nội dung ghi trong giấy sỏ hữu nhà là chứng cứ của vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà thì phải thừa nhận B là chủ sở hữu nhà đang tranh chấp và như vậy đã không bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của các bên, không giải quyết đúng nội dung vụ án.

dụ 3: Cũng tương tự như vậy, kết luận giám định có thể là chứng cứ, nhưng nếu kết luận giám định là một kết luận sai, không phản ánh đúng bản chất sự việc, ví dụ: chữ ký, chữ viết trong một tài liệu thực tế là của A, nhưng kết quả giám định lại kết luận là của B, thì nội dung kết luận đó không được coi là chứng cứ của vụ án, không phải là căn cứ để Toà án ra phán quyết.

Ví dụ 4: A tạo ra di chúc giả và khỏi kiện xin chia di sản thừa kế theo di chúc, thì di chúc giả đó không thể coi là chứng cứ để chia thừa kế theo di chúc được, V.V..

Như vậy, chỉ những gì có thật, được thu thập theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự... mới có thể được coi là chứng cứ của vụ án. Do đó, việc xác định sự kiện, tình tiết nào được coi là chứng cứ của vụ án là không đơn giản trong hoạt động thực tiễn.

Việc hình thành một sự kiện, một tình tiết có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có hành vi con người, nhưng một khi sự kiện, hiện tượng, tình tiết đó đã ra đời và được coi lẩ chứng cứ của vụ án thì nó lại tồn tại một cách khách quan với ý thức của con người, kể cả người đã tạo ra nó.

Ví dụ 5: Một hợp đồng vay nợ do chính người vay viết, có chữ ký của hai bên và xác nhận của công chứng nhà nước, có nhiều người chứng kiến việc ký kết và thực hiện hợp đồng vay nợ, thì dù bản hợp đồng đó có bị huỷ, điểu đó có nghĩa một nguồn chứng cứ đã bị mất, nhưng sự kiện ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng là có thực, đã được phản ánh vào trong ý thức của hai bên đương sự, những ngưòi chứng kiến (là “dấu vết” phi vật thể) và được tái hiện trong lời khai của họ. Chính nội dung lời khai được thu thập theo đúng quy định pháp luật, phản ánh sự thật đó là chứng cứ của vụ án. Do đó, dù bản hợp đồng vay nợ (là một nguồn chứng cứ) không còn tồn tại về mặt vật chất cụ thể, nhưng điểu đó không có nghĩa là chứng cứ về việc ký kêt và thực hiện hợp đồng cũng mất đi. Vì vậy, để có thể thu thập được nhiều tài liệu chứa đựng chứng cứ của vụ án thì phải thu thập nhiều nguồn chứng cứ mà Thẩm phán đánh giá là có khả năng chứa đựng chứng cứ.

Ví dụ 6: Ông A là người có một khôi tài sản, ông A viết di chúc và nhờ ông s, ông Y làm chứng.

Sau một tháng, ông A đã sửa một điều khoản trong di chúc. Ông A có thông báo cho con trai là H biết ông có để lại di chúc và gửi di chúc cho ông K giữ.

Ông A và ông s, Ông Y đều đã chết. Ngay sau đó, do hỏa hoạn, ông K cũng bị chết và di chúc bị cháy. Dù việc ông A để lại di chúc là có thật, nhưng bản di chúc và những người biết được nội dung di chúc đều đã chết, họ đã mang theo điều bí mật của di chúc. Nên anh H không thể yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, vì lý do không thu thập được chứng cứ, chứng cứ không còn để có thể thu thập.

Như vậy, chứng cứ của vụ án luôn tồn tại khách quan, được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Nó có thể sinh ra, thay đổi (về hình thức và nội dung) và có thể mất đi nằm ngoài ý muốn hay trong ý muốn của con người. Chứng cứ với ý nghĩa là một sự kiện, hiện tượng, tình tiết đã xuất hiện và đang tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau của thế giối vật chất. Do đó, con người có thể tìm ra chứng cứ, phât hiện, thu thập chứng cứ chứ không thể tạo ra chứng cứ cho vụ việc dân sự. Tất cả những gì mà một ai đó cố tình tạo ra để đánh lừa các cơ quan chức năng và mọi người thì đó là sự kiện giẫ, tình tiết giả, giả chứng cứ, nó không được coi là chứng cứ của vụ án. Tuy nhiên trong thực tiễn, “chứng cứ giả” vẫn xuất hiện, do những con người không trung thực, vì những động cơ khác nhau, đã tạo ra và cung cấp cho Toà án làm cho việc đánh giá chứng cứ trở nên khó khăn, phức tạp trước hoả mù giả, thật.

Do đó, muốn xác định một sự kiện, một tình tiết, tài liệu nào đó là chứng cứ của vụ việc dân sự hay không thì phải xem nó có liên quan mật thiết đến vụ việc dân sự mà Toà án đang giải quyết hay không? Sự liên quan đó có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp nên đòi hỏi Toà án, Thẩm phán phải biết chọn lọc khi thu thập tài liệu, chứng cứ.

Tuy nhiên một sự kiện, một tình tiết muốn trở thành chứng cứ của vụ án, muốn có giá trị chứng minh cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự thì nó phải được thu thập theo một trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định mới có giá trị pháp lý.

4, Căn cứ xác định chứng cứ

Căn cứ theo Điều 95 của Bộ luật tố tụng dân sự về xác định nguồn chứng cứ được quy định như sau:

- Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.

- Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.

- Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

- Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.

- Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.

- Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

- Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

- Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.

Việc tìm hiểu quy định về chứng cứ không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn góp phần quan trọng vào quá trình giải quyết vụ án.

5. Đặc điểm của chứng cứ

Từ phân tích trên ta có thể rút ra một số đặc điểm của chứng cứ và ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đó như sau:

Một là, tính khách quan của chứng cứ: khi một chứng cứ đã xuất hiện nó sẽ tồn tại trong thế giối vật chất, đó cũng là thê giới khách quan, độc lập vối ý thức của con người. Tuy nhiên, cần tránh nhầm lẫn giữa tính khách quan của chứng cứ với sự hình thành nên chứng cứ. Thông thường một sự vật, tài liệu... được hình thành từ ý muốn chủ quan của con người, ví dụ như di chúc, các nội dung của bản di chúc do chủ sỏ hữu tài sản đó viết ra, quá trình viết di chúc là quá trình hình thành của một văn bản nó thể hiện ý chí, mong muốn chủ quan của chính chủ thể đó, mà sau này nếu có việc khởi kiện chia thừa kế thì bản di chúc Sẽ trở thành một nguồn chứng cớ. Khi bản di chúc đó ra đời và được thu thập theo đúng quy định Bộ luật tô' tụng dân sự, thì những nội dung thể hiện ý chí của chủ sỏ hữu về định đoạt tài sản sẽ là chứng cứ của vụ án tranh chấp, yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, và chứng cứ này tồn tại một cách khách quan. Do đó, con người chỉ có thể nhận thức về nó, thu thập, nghiên cứu, đánh giá nó, chứ không thể tạo ra chứng cứ theo đúng ý nghĩa, bản chất của chứng cứ. Mọi hành vi sửa chữa, thay đổi, tạo ra cái gọi là chứng cứ, thì đó chắc chắn không phải là chứng cứ của vụ án, đó là giả chứng cứ. Vì vậy, khi thu thập, nghiên cứu về chứng cứ phải rất chú ý đến tính khách quan của chứng cứ, phải xem xét nội dung các tài liệu có phải xác thực hay không, nó xuất hiện khi nào? ai là người viết, ai là ngưòi quản lý, lưu giữ hay phát hiện ra nó; chứng cứ đó có phản ánh đúng bản chất của sự việc hay không... để xem xét, đánh giá nó như nó vốn có.

Hai là, tính liên quan của chứng cứ: khi có việc khởi kiện hoặc khi có yêu cầu Tòa án giải quyết một vụ việc , dân sự thì đương sự, nhân chứng, các cơ quan tổ chức... sẽ cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin, tài liệu nhưng chỉ những thông tin, tài liệu nào có liên quan đến vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết mối cần thu thập để sử dụng làm chứng cứ của vụ việc dân sự đó. Sự liên quan này có thể là trực tiếp, rất dễ nhận ra, nó giúp chúng ta nhận thức ra ngay bản chất, sự thật khách quan của vụ việc dân sự đó.

Ví dụ trong vụ án đòi nợ, thì giấy xác nhận số tiền còn nợ do chính con nỢ viết ra, bản hợp đồng thuê tài sản trong vụ án tranh chấp quyển nghĩa vụ các bên trong hợp đồng thuê tài sản; bản di chúc trong vụ án kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc... là những tài liệu, chứng cứ liên quan trực tiếp đến sự kiện cần chứng minh trong vụ ấn, đồng thời nó sẽ là chứng cứ trực tiếp.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi những tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án chỉ là gián tiếp phải xâu chuỗi, xem xét, đánh giá nó trong mối quan hệ vối các tài liệu, tình tiết khác, những .ohứng cứ khác mới thấy được giá trị chứng minh của nó.

Ví dụ 7: A kiện đòi nợ B, A trình bày, sáng ngày 10-01-2010, có cho B vay 10.000.000 đồng, đến hạn B không trả. B khai không hề vay tiền của A và còn nói thêm cả ngày hôm 10-01-2010 B ngồi chơi bài cùng với N, p, Q.

Tòa án tiến hành lấy lời khai của nhân chứng, khi được hỏi N, p, Q khai ngày hôm đó, B không chơi bài vối họ. Nhân chứng X khai ngày 8-01-2010, B có đến nhà chơi và nói đang thiếu tiền mua máy xay sát, X có cho B biết là A đang có tiền nhàn rỗi, đến đó hỏi vay xem. Nhân chứng H khai có nhìn thấy B đến nhà A ngày 10-01-2010, còn đến để làm gì H không biết nhưng khi B từ nhà A ra có thấy B cầm một tập tiền...

Như vậy, nội dung lời khai của các nhân chứng: N, P, Q, của X, của H... là những tài liệu, chứng cứ có liên quan gián tiếp đến vụ kiện đòi nợ, nếu để độc lập, tách riêng giữa các lời khai nói trên vói nhau và các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án thì các lời khai đó không có ý nghĩa, không nói lên được điều gì đối với vụ án đó. Nhưng nếu xem xét trong mốỉ liên hệ giữa các lời khai trên với nhau sẽ cho thấy những thông tin rất có ý nghĩa và khi xem xét nó với các tài liệu chửng cứ khác của vụ án, sẽ giúp chúng ta thấy rõ nét hơn sự việc.

Ví dụ 8: Trong vụ án xin truy nhận cha cho con, cả p và H đều thừa nhận hai người có thời gian yêu nhau, H xuất trình lá thư của p thể hiện tình yêu... nhưng p không thừa nhận con do H đẻ ra là con mình. Những nội dung nói trên có liên quan đến vụ án, nhưng nó có tính chất trung gian, gián tiếp với sự kiện cần chứng minh. Việc sử dụng đánh giá các sự kiện, tình tiết có tính chất trung gian nói trên đòi hỏi Thẩm phán phải hết sức thận trọng, phải xem xét, đánh giá nó trong mối quan hệ tổng thể với tài liệu, chứng cứ khác, tránh việc suy đoán.

Ba là, tính hợp pháp của chứng cứ: Các tài liệu, vật chứng... muốn trở thành chứng cứ phải được thu thập, bảo quản theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định thì mối có giá trị pháp lý.

Ví dụ 9: Trong một biên bản lấy lời khai của đương sự A, có nội dung chính là đương sự A thừa nhận có nợ B số tiền như B khỏi kiện. Biên bản này không có chữ ký của A, không có chữ ký của Thẩm phán lấy lời khai, biên bản không thể hiện thời gian, địa điểm lấy lời khai, như vậy biên bản lấy lời khai này đã không làm đúng quy định của pháp luật, nên các nội dung trong đó không được coi là chứng cứ.

Ví dụ 10: Một biên bản ghi lời khai đã thực hiện đúng các yêu cầu về hình thức của một biên bản, nhưng A đưa ra được tài liệu (ví dụ bản ghi âm buổi lấy lời khai, có xác nhận xuất xứ của tài liệu này) và chứng minh lời thừa nhận của A trong biên bản lấy lời khai là do bị luật sư uy hiếp bằng vũ lực, sự đe dọa rất mạnh mẽ, A phải khai theo ý của luật sư, nên không đúng sự thật. Trong trường hợp này, lòi thừa nhận của A trong biên bản nói trên không có giá trị chứng minh, không là chứng cứ của vụ án, vì tài liệu đó không hợp pháp.

Ví dụ 11: Một bản di chúc, bản hợp đồng photocopy nhưng không có công chứng, chứng thực là đã sao y bản chính; không có bản chính để xuất trình cho Tòa án, trong khi các đương sự không thừa nhận nội dung, chữ ký... trong các tài liệu photocopy này thì tài liệu đó cũng không có giá trị chứng minh do không bảo đảm tính hợp pháp.

Như vậy, một tài liệu chỉ được coi là chứng cứ khi nó bảo đảm cả ba đặc điểm nêu trên thì mới có giá trị chứng minh, mới là căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.