Mục lục bài viết
- 1. Cơ sở pháp lý bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
- 2. Công trình xây dựng và nhà ở hiện nay được quy định ở đâu?
- 3. Đặc điểm công trình xây dựng và nhà ở
- 4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật theo pháp luật trước đây
- 5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật theo pháp luật hiện hành
Khách hàng: Kính thưa Luật sư, công trình xây dựng và nhà ở hiện nay được quy định ở đâu? chúng có đặc điểm gì? Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nhà cửa, công trình xây dựng khác được xác định như thế nào?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Cơ sở pháp lý bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
- Quy định về bồi thường thiệt hại do do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong Bộ luật dân sự năm 2015 được kế thừa nhưng có những sửa đổi so với Bộ luật trước đó. Tại Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
"Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường."
Quy định này của Bộ luật sẽ bao quát được toàn bộ các trường hợp bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra, giúp cho tòa án có cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các vụ việc tranh chấp phát sinh trên thực tiễn.
2. Công trình xây dựng và nhà ở hiện nay được quy định ở đâu?
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014, “nhà ở là công trình xây dựng với mục đích đế ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”.
Theo khái niệm này, nhà ở cũng là một trong các loại công trình xây dựng do con người tạo ra để phục vụ các nhu cầu khác nhau.
- Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2014 quy định:
“Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, cồng trình hạ tầng kỹ thuật và công trình khác".
Theo khái niệm này không những khái quát về công trình xây dựng, mà còn liệu kê các loại công trình xây dựng được điều chỉnh bởi Luật Xây dựng và pháp luật có liên quan.
Ngoài ra, các công trình xây dựng còn được liệt kê và phân loại cụ thể theo hướng dẫn tại Điều 8 Nghị định số 46/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng (danh mục chi tiết các các loại công trình được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này).
Có thể thấy, việc xây dựng khái niệm nhà ở, khái niệm công trình xây dựng và xác định cụ thể các loại công trình xây dựng như trong Luật Nhà ở năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014 và văn bản hướng dẫn thi hành có vai trò quan trọng, nhằm xác định cơ sở pháp lý được áp dụng để giải quyết van đề bồi thường thiệt hại khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra thiệt hại.
Theo đó, chỉ những công trình xây dựng đã được liệt kê tại Điều 8 Nghị định số 46/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì mới áp dụng quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại.
3. Đặc điểm công trình xây dựng và nhà ở
Nhà cửa và các công trình xây dựng khác là một loại bất động sản. Đặc điểm này xuất phát từ quy định pháp luật về bất động sản trong Bộ luật Dân sự. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015, nhà và công trình xây dựng gắn liền với đất đai là một trong các loại bất động sản. Theo đó, nhà cửa và các công trình xây dựng khác cũng mang những đặc điểm của bất động sản như:
a. Đây là những tài sản gắn liền với đất và thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu
Ngay trong quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2014 đã xác định công trình xây dựng nói chung được liên kết định vị với đất. Mặc dù hiện nay, việc phân loại tài sản thành bất động sản hay động sản không còn dựa vào đặc tính di, dời hay không di, dời của tài sản như trong khoản 1 Điều 181 Bộ luật Dân sự trước đây (là năm 1995), nhưng dựa vào đặc tính của các loại tài sản này chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy tính bất động của các loại tài sản này. Ngoài ra, bất động sản là những loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật dân sự năm 2015, nên khi bất động sản gây thiệt hại, có thể xác định ngay được các chủ thể có liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại.
b. Phạm vi gây thiệt hại của những loại tài sản này thường hẹp hơn so với các loại tài sản khác, trừ khi đó là nhà máy công nghiệp đang hoạt động gây thiệt hại
Đặc điểm không di dời của bất động sản cho thấy, đây là những loại tài sản chỉ tồn tại ở một vị trí nhất định. Không giống như động vật hoặc các loại động sản khác có khả năng tự di chuyển hoặc do con người di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác, nhà cửa, công trình xây dựng khác nếu gây thiệt hại cũng chỉ trong phạm vi được con người định vị.
c. Con người hoàn toàn có thể kiểm soát, chi phối sự tồn tại của nhà cửa, công trình xây dựng theo ý chí của mình, nhưng hoạt động quản lý của con người không tác động nhiều đến hoạt động gây thiệt hại của nhà cửa, công trình xây dựng khác
Việc xây dựng, sử dụng, đặt ở các vị trí khác nhau, thậm chí là phá hủy nhà cửa, công trình xây dựng hầu như đều nằm trong tầm tay của con người. Do đó, đây là loại tài sản có thể chịu sự quản lý gần như tuyệt đối của con người. Đặc điểm này cho thấy việc nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại nó liên quan chặt chẽ với việc quản lý của chủ sở hữu, cũng như của các chủ thể khác.
d. Khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại, chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hoặc chủ thể có liên quan (người thi công) luôn bị suy đoán là có lỗi
Sự suy đoán này xuất phát từ khả năng quản lý cũng như kiểm soát sự tồn tại gần như tuyệt đối của chủ sở hữu, các chủ thể khác đối với loại tài sản này. Không giống như những loại tài sản khác (động vật, phương tiện giao thông,...), khi gây thiệt hại có thể chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng không kiểm soát được, bởi vì hoạt động của những loại tài sản có thể vượt khỏi tầm kiểm soát của con người.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật theo pháp luật trước đây
Trên thực tế, nhiều trường hợp một chủ thể không có quyền nhưng lại thực hiện chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác của một chủ thể khác vào những mục đích nhất định. Vậy câu hỏi đặt ra là họ có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không? Đây là vấn đề mà cả bộ luật dân sự trước đây và Bộ luật dân sự Việt Nam hiện nay (nam 2015) đều chưa giải quyết triệt để.
Theo tinh thần của Điều 627 Bộ luật dân sự trước đây (là năm 2005), người được giao chiếm hữu, sử dụng được xác định là người được chủ sở hữu chuyên giao quyền, nên việc chiếm hữu, sử dụng của họ là có căn cứ pháp luật.
Do đó, quy định này không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Tuy nhiên, quy định tại Điều 627 của bộ luật cũng sẽ dẫn đến các cách hiểu khác nhau về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật như sau:
- Cách hiểu thứ nhất, nếu nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì chỉ có chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng mới phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngay cả khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại khi đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
- Cách hiểu thứ hai, nếu nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại khi đang bị người khác hiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được xác định như sau:
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng không có lỗi trong quản lý thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoàn toàn thuộc về người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật;
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng cũng có lỗi trong quản lý dẫn đến việc nhà cửa, công trình xây dựng khác bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
Đối với hai cách hiểu trên, có lẽ cách hiểu thứ nhất hoàn toàn không phù hợp, bởi vì lý do rằng là có những trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng không có lỗi. Hơn nữa, khi đó chủ sở hữu, người được giao quản lý, sử dụng còn bị tước mất quyền khai thác lợi ích từ những tài sản này, nên không thể buộc họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Đối với cách hiểu thứ hai sẽ có cả sự hợp lý và bất hợp lý.
Thứ nhất, tính hợp lý, nó thể hiện ở chỗ nó phù hợp với lễ công bằng và thể hiện sự tương thích giữa các quy định cụ thể về bồi thường thiệt hạido tài sản gây ra.
Thứ hai, sự không họp lý thể hiện ở chỗ, nó theo cách hiểu thứ hai có thể dẫn đến sự thừa nhận lỗi là một trong các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.
Với các cách hiểu khác nhau về cùng một quy định tất yếu sẽ dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các Hội đồng xét xử cũng như sự bất đồng giữa các thành viên trong cùng một Hội đồng xét xử. Điều này không những sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan. Do đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nhà cửa, công trình xây dựng là vấn đề cần thiết phải được quy định cụ thể.
5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật theo pháp luật hiện hành
Trước những bất cập trong quy định của Điều 627 bộ luật trước đây ta vừa phân tích ở trên, hiện nay có Bộ luật dân sự năm 2015 được ban hành đã phần nào được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Trong đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu (trong đó có chiếm hữu trái pháp luật) đã được quy định một cách cụ thể. Theo đó, cụm từ “người chiếm hữu” đã được bổ sung và đặt sau cụm từ “chủ sở hữu” và trước cụm từ “người được giao quản lý, sử dụng”. Trước hết, sự bổ sung này là phù hợp và đã giải quyết được phần nào vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu trái pháp luật khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại. Tuy nhiên, đối với quy định này vẫn còn một số điểm chưa hợp lý, cụ thể là những điểm như sau:
Điểm thứ nhất, theo như phân tích chúng ta đã chỉ ra sự trùng lặp và sự bao hàm lẫn nhau giữa khái niệm “người chiếm hữu” với các khái niệm “người được giao quản lý”, “người được giao sử dụng” và thậm chí là “chủ sở hữu”. Tức là, việc sử dụng cụm từ “người chiếm hữu” như trong Bộ luật dân sự năm 2015 như vậy là không phù hợp, nó khiến cho các khái niệm bị chồng lấn lên nhau, và có những khái niệm sẽ bị thừa. Nếu sử dụng cụm từ này thì cụm từ “người được giao quản lý, sử dụng” dường như là vô nghĩa vì chính người được giao quản lý, sử dụng đã là người chiếm hữu mất rồi.
Điểm thứ hai, về việc chỉ sử dụng cụm từ “người chiếm hữu” và đặt ở vị trí như vậy sẽ dẫn đến khó xác định thứ tự xác định chủ thể phải bồi thường thiệt hại khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại. Hơn nữa, chúng ta cũng khó có thể xác định được “người chiếm hữu” phải bồi thường thiệt hại là người chiếm hữu có căn cứ pháp luật hay người chiếm hữu trái pháp luật.
Điểm thứ ba, việc chỉ bổ sung cụm từ “người chiếm hữu” là chưa đủ căn cứ để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng trái pháp luật nhà cửa, công trình xây dựng khác. Bởi vì thực tế, để có thể sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác đôi khi không cần phải chiếm hữu nó. Do đó, đôi khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại khi đang bị người khác sử dụng trái pháp luật (không chiếm hữu) mà nếu chỉ căn cứ vào các cụm từ được sử dụng trong Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 sẽ khó có thể buộc người sử dụng trái pháp luật đó bồi thường thiệt hại.
=> Như vậy từ những phân tích trên,chúng ta có thể xác định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác, thì quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 đôi khi phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Trân trọng!