Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm về nhân quyền
- 2. Tổng quan về Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
- 3. Cấu trúc và nội dung của Tuyên ngôn
- 4. Các quyền cơ bản của con người theo Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
- 4.1. Các quyền về dân sự, chính trị
- 4.2. Các quyền về kinh tế - xã hội và văn hóa
- 5. Ý nghĩa của Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
1. Khái niệm về nhân quyền
Nhân quyền (hay quyền con người; tiếng Anh: human rights) là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó để bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân "hiển nhiên có" do sự tồn tại của mình.
Như vậy, có thể khái quát, quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
2. Tổng quan về Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất khoảng 500 ngôn ngữ. Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân, được hưởng, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác (điều 2). Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng hai Nghị định thư không bắt buộc I và II. Năm 1966, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua hai Công ước trên, qua đó hoàn thành cơ bản Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế.
Tuyên bố bao gồm 30 điều khoản khẳng định các quyền của một cá nhân, mặc dù bản thân không ràng buộc về mặt pháp lý, đã được xây dựng trong các điều ước quốc tế sau đó, chuyển giao kinh tế, các công cụ nhân quyền khu vực, hiến pháp quốc gia và các luật khác. Tuyên bố là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng Dự luật Nhân quyền Quốc tế, được hoàn thành vào năm 1966 và có hiệu lực vào năm 1976, sau khi đủ số lượng quốc gia phê chuẩn chúng
Một số học giả pháp lý đã lập luận rằng bởi vì các quốc gia đã liên tục đưa ra Tuyên bố trong hơn 50 năm, nên nó đã trở thành ràng buộc như là một phần của luật quốc tế thông thường. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, Tòa án Tối cao ở Sosa v. Alvarez-Machain (2004), kết luận rằng Tuyên bố "không buộc chính mình áp đặt nghĩa vụ như một vấn đề của luật pháp quốc tế". Tòa án của các quốc gia khác cũng đã kết luận rằng Tuyên bố này không nằm trong chính bản thân luật pháp trong từng quốc gia.
3. Cấu trúc và nội dung của Tuyên ngôn
Cấu trúc cơ bản của Tuyên ngôn toàn cầu đã được giới thiệu trong dự thảo thứ hai của nó, được René Cassin soạn thảo. Cassin đã làm việc từ một bản thảo đầu tiên, được chuẩn bị bởi John Peters Humphrey. Cấu trúc bị ảnh hưởng từ Bộ luật Napoléon, bao gồm các nguyên tắc chung mở đầu và giới thiệu. Cassin so sánh Tuyên ngôn này với hiên của một ngôi đền Hy Lạp, với một nền tảng, các bậc thang, bốn cột, và trán tường.
Tuyên bố bao gồm một lời mở đầu và ba mươi điều:
- Lời mở đầu đặt ra các nguyên nhân lịch sử và xã hội dẫn đến sự cần thiết phải soạn thảo Tuyên ngôn.
- Điều 1-2 đã thiết lập các khái niệm cơ bản về nhân phẩm, tự do và bình đẳng.
- Điều 3-5 thiết lập các quyền cá nhân khác, như quyền sống và cấm nô lệ và tra tấn.
- Điều 6-11 đề cập đến tính hợp pháp cơ bản của quyền con người với các biện pháp cụ thể được trích dẫn để bảo vệ họ khi bị vi phạm.
- Điều 12-17 đã thiết lập quyền của cá nhân đối với cộng đồng (bao gồm cả những thứ như tự do di chuyển).
- Các điều 18-21 đã phê chuẩn cái gọi là "quyền tự do hiến pháp", và với các quyền tự do tinh thần, công cộng và chính trị, như tự do tư tưởng, quan điểm, tôn giáo và lương tâm, từ ngữ, và hiệp hội hòa bình của cá nhân.
- Điều 22-27 đã phê chuẩn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của một cá nhân, bao gồm cả chăm sóc sức khỏe. Điều 25 quy định: "Mọi người đều có quyền có mức sống phù hợp với sức khỏe và hạnh phúc của bản thân và gia đình, bao gồm thực phẩm, quần áo, nhà ở và chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết." Nó cũng tạo thêm sự hỗ trợ cho an ninh trong trường hợp suy nhược hoặc khuyết tật về thể chất, và đặc biệt đề cập đến sự chăm sóc dành cho những người đang làm mẹ hoặc thời thơ ấu.
- Các điều 28-30 đã thiết lập các cách sử dụng chung các quyền này, các lĩnh vực mà các quyền này của cá nhân không thể được áp dụng và chúng không thể được khắc phục đối với cá nhân.
Những điều này liên quan đến nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và việc cấm sử dụng các quyền trái với mục đích của Tổ chức Liên Hợp Quốc.
4. Các quyền cơ bản của con người theo Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
Trong phần nội dung, 30 điều của tuyên ngôn quy định khá đầy đủ về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa.
4.1. Các quyền về dân sự, chính trị
Về các quyền dân sự, chính trị, tuyên ngôn quy định: Không ai “Bị phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến…” (Điều 2); mọi người đều có “Quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể (Điều 3); không ai bị “Tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm” (Điều 5); “Ai cũng có quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật ở bất cứ tại đâu” (Điều 6); “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 7); Mọi người đều có quyền được hưởng nguyên tắc “suy đoán là vô tội” (Điều 11); “Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín”… (Điều 12); “Ai cũng có quyền có quốc tịch” (Điều 15); “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo”; ai cũng có quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tin tức… không kể biên giới quốc gia” (Điều 18); “Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình” (Điều 20); “Ai cũng có quyền tham gia chính quyền…” (Điều 21)…
4.2. Các quyền về kinh tế - xã hội và văn hóa
Về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, tuyên ngôn quy định: “Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình” (Điều 16); “Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác; không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán” (Điều 17); “Ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội” (Điều 22); “Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp” (Điều 23); “Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả lương” (Điều 24); “Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình bao gồm thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết;… Sản phụ, trẻ em được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” (Điều 25); “Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng; giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách… Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, khoan dung và hữu nghị giữa các quốc gia…” (Điều 26); “Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy” (Điều 27).
Về nghĩa vụ của mỗi người, tuyên ngôn quy định: “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng…; Trong khi thực hiện những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp quy định vì quyền tự do của người khác và những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng…” (Điều 29).
5. Ý nghĩa của Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
Cho đến nay, sau Hiến chương LHQ, tuyên ngôn được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân loại. Theo đó, ngày 10/12 hàng năm được tôn vinh là Ngày Nhân quyền thế giới. Những tư tưởng chính trị và những quy định về các quyền cơ bản của tuyên ngôn được xem là mục tiêu vươn tới của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Ý nghĩa đương đại - lớn lao của tuyên ngôn là ở chỗ:
Thứ nhất: Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng - chính trị - pháp lý hình thành cơ chế quyền con người của LHQ bảo vệ quyền con người. Đó là cơ sở cho sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền (1948 - 2006), tiếp theo là Hội đồng Nhân quyền (từ năm 2006 đến nay). Trong thời kỳ đầu, Ủy ban Nhân quyền nằm trong Hội đồng Kinh tế - Xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng to lớn của quyền con người, năm 2006, Đại Hội đồng LHQ quyết định nâng cao vai trò của tổ chức này lên thành Hội đồng Nhân quyền - cơ quan này trực thuộc Đại Hội đồng;
Thứ hai: Tuyên ngôn là cơ sở chính trị - pháp lý để LHQ xây dựng và ban hành các công ước quốc tế về quyền con người;
Thứ ba: Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng hình thành cơ chế về quyền con người ở các châu lục.
Ở châu Âu, “Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản” được soạn thảo từ năm 1950, có hiệu lực từ ngày 3/9/1953. Các thành viên của Liên minh châu Âu đều là thành viên công ước. Dựa trên công ước này, Tòa án Nhân quyền châu Âu ra đời. Tòa án có quyền nhận đơn và đưa ra xét xử bất cứ ai trong các quốc gia châu Âu có đơn tố cáo mình bị xâm phạm về quyền con người. Phán quyết của tòa án buộc các chính phủ trong liên minh phải có nghĩa vụ thi hành.
Ở châu Mỹ, “Công ước châu Mỹ về nhân quyền” (còn gọi là Hiệp ước San José) là văn kiện về nhân quyền chung cho các quốc gia ở châu lục này. Công ước này được các nước châu Mỹ chấp thuận trong cuộc họp ở San José (Costa Rica ngày 22/11/1969). Văn kiện này tái khẳng định tuyên ngôn và đẩy mạnh việc bảo vệ quyền con người ở châu lục này.
Ở châu Phi, “Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc” được thông qua vào ngày 27/6/1981 (có hiệu lực ngày 21/10/1981). Đây là văn kiện đặt nền tảng trong việc bảo vệ quyền con người ở châu Phi. Văn kiện này tái khẳng định tuyên ngôn và thúc đẩy việc bảo vệ quyền con người, phù hợp với tính đặc thù về lịch sử, văn hóa của châu Phi.
Cho đến nay, chưa có tổ chức nhân quyền châu Á, tuy nhiên thập niên gần đây đã có tổ chức nhân quyền ASEAN. “Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền” (AICHR) được thành lập vào ngày 1/4/2010 tại Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a). Ủy ban này quyền lực còn hạn chế - AICHR chỉ là cơ quan tư vấn liên chính phủ của hiệp hội. Mục đích của cơ quan này, bao gồm: Thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của nhân dân các nước ASEAN; …góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của ASEAN…; thúc đẩy nhân quyền trên cơ sở bối cảnh khu vực, ghi nhớ tính đặc thù của từng nước và của khu vực, tôn trọng sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, có tính đến sự cân bằng giữa quyền lợi và trách nhiệm;…
Trở lại tuyên ngôn, theo quan niệm chung - tuyên ngôn là văn kiện chính trị - tư tưởng, không có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Cho nên, sau tuyên ngôn, LHQ đã xây dựng và thông qua hệ thống các công ước quốc tế về quyền con người (CU). Khác với tuyên ngôn, các CU là văn kiện có tính ràng buộc về pháp lý.
Cho đến nay LHQ đã ban hành hai công ước bảo vệ các quyền cơ bản của con người, gồm: “CU về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982); “CU về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa” năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982). Trước đó là “Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc” năm 1969 (Việt Nam gia nhập ngày 9/6/1982).
LHQ đặc biệt quan tâm đến xây dựng các CU bảo vệ nhóm xã hội dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật), như: “CU xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” năm 1979 (Việt Nam ký kết ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 17/2/1982); “Công ước về Quyền trẻ em” năm 1989 (Việt Nam ký kết ngày 26/1/1990, phê chuẩn ngày 28/2/1990; sau đó Việt Nam đã phê chuẩn hai nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang, ký kết ngày 8/9/2000 và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm); “Công ước về quyền của người khuyết tật” năm 2006 (Việt Nam ký ngày 22/11/2007 và phê chuẩn ngày 5/2/2015); “Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” (viết tắc là CAT), Việt Nam ký ngày 7/11/2013, phê chuẩn ngày 5/2/2015.
Theo quy định chung của các quốc gia, điều kiện để CƯ được thực thi là: (1) Quốc gia đó chính thức gia nhập hoặc ký kết (Chính phủ), phê chuẩn (Quốc hội) công ước. (2) Công ước được nội luật hóa trong hiến pháp và hệ thống pháp luật quốc gia hoặc cơ quan lập pháp xác định công ước được thực hiện trực tiếp ở quốc gia đó (không cần “nội luật hóa…” trong hệ thống pháp luật quốc gia). Nhà nước Việt Nam lựa chọn phương thức “nội luật hóa” công ước. Cho đến nay, Nhà nước Việt Nam đã nội luật hóa tất cả công ước mà mình tham gia. Bởi vậy, có thể nói các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia đến nay được bảo đảm vững chắc bằng pháp luật.
Chương II, Hiến pháp 2013 - “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” có giá trị đặc biệt. Các quyền con người trong Chương II không phải chủ yếu là nội luật hóa các công ước về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, mà chủ yếu là kết thừa các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), nhất là Hiến pháp 1946. Có thể nói những quy định trong Chương II nói lên rằng, tôn trọng và bảo đảm quyền con người thuộc bản chất, xuyên suốt lịch sử Việt Nam đương đại (từ năm 1945 đến nay).
Trở lại tuyên ngôn - nói về quyền con người, sau tuyên ngôn là “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động” (gọi tắt là tuyên bố). Đây là văn kiện Hội nghị thế giới về quyền con người (họp tại Viên (Áo) ngày 25/6/1993. Tuyên bố tái khẳng định tầm quan trọng của tuyên ngôn, đồng thời định hướng việc giải quyết nhiều vấn đề quan trọng - cập nhật về quyền con người, như quyền dân tộc tự quyết; quyền của người di cư; bạo lực dựa trên giới; quyền phát triển; tăng cường giáo dục về quyền con người và quyền được sống trong môi trường trong sạch (không bị ô nhiễm…). Đặc biệt, hội nghị đưa ra quan điểm xử lý mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người.
Trong việc bảo đảm quyền con người ở các quốc gia, cũng như đánh giá của các nước đối với việc bảo đảm quyền con người thường có hai khuynh hướng: (1) Áp đặt quan điểm của mình cho một quốc gia nào đó (thường là của một số quốc gia phương Tây, nhất là Hoa Kỳ); (2) Đưa ra quá nhiều quy định hạn chế quyền viện cớ quốc gia mình có những đặc điểm riêng… Để xử lý sự khác biệt này, tuyên bố viết: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ biến, không thể chia cắt, phụ thuộc và liên quan đến nhau... Trong khi phải luôn ghi nhớ tầm quan trọng của tính đặc thù về dân tộc, khu vực cũng như bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo; các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, có nghĩa vụ thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người” (Điều 5). Gắn liền với quan điểm trên, tuyên bố tái khẳng định quyền dân tộc tự quyết. Tuyên bố viết “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị cũng như tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của mình… Hội nghị thế giới về quyền con người coi việc khước từ quyền tự quyết dân tộc là sự vi phạm quyền con người” (Điều 2).
Xét về phương diện chính trị, tuyên bố Viên đã bổ sung cho tuyên ngôn về quyền của các dân tộc thuộc địa. Đây là cơ sở, điều kiện bảo đảm quyền con người đối với các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc (vào thời kỳ đó). Ý nghĩa quan trọng của quan điểm này là các nhà nước có toàn quyền đưa ra các quy định về quyền con người phù hợp với truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa và thể chế chính trị của mình, bác bỏ các luận điệu lợi dụng quyền con người để can thiệp vào công việc của các quốc gia.
Có thể nói tuyên ngôn và các CU đã được cộng đồng quốc tế tôn vinh, ký kết và thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn sự khác biệt trọng nhận thức của một số quốc gia về quyền con người. Đến nay, Hoa Kỳ đã ký kết, nhưng (Nghị viện) chưa phê chuẩn một số CU, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, Công ước về quyền trẻ em. Có ý kiến cho rằng, với Hoa Kỳ sở dĩ các CU được tổng thống ủng hộ nhưng chưa được Nghị viện thông qua là do chế độ đa đảng đối lập đã dẫn đến tình trạng này.
Trong những năm gần đây, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người ở tất cả các quốc gia, Hội đồng Nhân quyền đã quyết định thực hiện “Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR)”. Mục tiêu của UPR là cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, UPR sẽ đánh giá báo cáo hàng năm của các quốc gia về quyền con người; chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia và các bên liên quan khác. Đồng thời qua đó Hội đồng Nhân quyền có thể hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia nhằm tăng cường năng lực để đối phó hiệu quả với những thách thức về nhân quyền trong bối cảnh mới.
Quyền con người là giá trị chung của các quốc gia, dân tộc. Giá trị đó đã sớm được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đối với dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền con người được xem là một mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Nhiều tư tưởng tiến bộ về quyền con người, đặc biệt là trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố ngày 2/9/1945 đã đi trước tuyên ngôn đến hơn 3 năm. Dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về điều này, đồng thời chúng ta cũng có nghĩa vụ nặng nề trong việc giữ gìn niềm tự hào đó cho các thế hệ tương lai.