1. Đặc trưng của công lý trong nền khoa học pháp lý.

Để nói về đặc trưng của công lý thì trước hết phải nói rằng công lý là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc. Nó chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế - xã hội của loài người đã phát triển đến một trình độ nhất định với những đặc trưng về quyền tư hữu, sự phân hóa, bất bình đẳng và xung đột xã hội. Mỗi chế độ chính trị, giai cấp thống trị sẽ quy định nội hàm cụ thể của công lý trong xã hội đó.
Tiếp theo đó công lý thể hiện phẩm hạnh thiết yếu của một xã hội văn minh, tiến bộ, trật tự và ổn định, chấm dứt giai đoạn các thành viên xã hội tự ý sử dụng bạo lực để báo thù. Từ khía cạnh luân lý, đạo đức, công lý là phẩm hạnh tự hoàn thiện mình trong mối quan hệ hướng tới người khác, giúp mỗi cá nhân tăng ý thức, tâm thức thận trọng, giảm tâm thức liều lĩnh, tự tiết chế, kiểm soát những hành vi làm phương hại đến các thành viên khác trong xã hội. Từ khía cạnh pháp lý, công lý là nghĩa vụ, bổn phận của một cá nhân đối với người khác khi quyền bị xâm phạm.
Tiếp nữa, công lý là một phẩm hạnh xã hội mang tính chính trị sâu sắc, nó khẳng định tính hợp pháp, chính đáng, chính nghĩa, chính thống cho sự ra đời và tồn tại của mỗi chính quyền, là giá trị dân chủ quan trọng để nhân dân đấu tranh bảo vệ các quyền tự do và là cơ chế giúp tạo đồng thuận xã hội, sự bình ổn, ổn định, gắn kết, nhân ái, hài hòa, đồng thuận trong mỗi cộng đồng xã hội. Do đó, mọi cộng đồng xã hội đều có nghĩa vụ bảo vệ công lý.
Cuối cùng, xét về bản chất, công lý là “đại lượng công bằng” để dàn xếp những mâu thuẫn, xung đột không thể tránh khỏi xảy ra giữa các thành viên xã hội. Ở khía cạnh phổ quát, đại lượng này có thể được quan niệm là công bằng trong phân phối “cho mọi người những gì họ xứng đáng, trao cho mỗi người cái họ đáng hưởng”, hay đó là nghĩa vụ “hoàn lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng”.
Thứ năm, trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện công lý, công lý có thể phân loại thành công lý phân phối hay công lý cải tạo, công lý thủ tục hay công lý nội dung. Công lý có thể vận hành và được bảo đảm thực hiện với nhiều cơ chế khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng xã hội như “tư nhân phục cừu”, “thục kim tự ý”, “thục kim bắt buộc, “trách nhiệm dân sự”, “trách nhiệm hình sự”.

2. Quan hệ giữa công lý với văn hóa pháp lý

Văn hóa pháp lý hay còn gọi là văn hóa pháp luật có mối quan hệ mật thiết với các giá trị pháp luật và các giá trị về văn hóa, là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật. Nó hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn. Văn hóa pháp lý thể hiện trình độ cao của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của người dân, của thực trạng chất lượng cao của quá trình xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Văn hóa pháp lý được thể hiện chủ yếu qua ba yếu tố: Hệ thống pháp luật và các phương tiện pháp luật (là các sản phẩm mang tính vật chất của ý thức pháp luật); năng lực, kỹ năng, cách thức sử dụng các phương tiện pháp luật đã được sáng tạo ra và hành vi, lối sống theo pháp luật của cá nhân và tổ chức trong xã hội; ý thức pháp luật của cá nhân, tầng lớp, giai cấp và toàn thể xã hội, theo đó, cái chung của ý thức pháp luật chính là công lý - “lẽ chung đúng đắn”.

Các yếu tố trong văn hóa pháp lý luôn quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ với nhau trong một thể thống nhất, trong đó ý thức pháp luật là yếu tố xuyên suốt, chi phối và định hướng cho các yếu tố còn lại. Bởi hệ thống pháp luật, các phương tiện pháp luật, hành vi, xử sự... chỉ là sự vật chất hóa, hiện thực hóa ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật luôn là yếu tố quan trọng tham gia vào các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật, là cơ sở cho hành vi và lối sống theo pháp luật.

Những tư tưởng, quan điểm pháp luật, những chuẩn mực pháp luật chỉ có giá trị khi nó bảo vệ những lý tưởng xã hội cao đẹp, hướng xã hội đi tới các giá trị tốt đẹp của văn hóa, tức là phải chứa đựng yếu tố công lý. Nếu chúng bảo vệ, dung túng cho cái xấu, cái ác, cái không đúng sự thật... thì chúng sẽ không có giá trị về mặt văn hóa, cũng như không chứa đựng công lý.

Văn hóa pháp lý luôn hàm chứa nội dung công lý. Do đó văn hóa pháp lý luôn được xem là một trong những phương thức quản lý xã hội quan trọng vì con người, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc cho con người, đồng thời nó cũng thể hiện như là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

3. Quan hệ giữa công lý với pháp chế

Pháp chế là thể chế pháp luật được xác lập trong toàn bộ đời sống xã hội từ trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đến các thiết chế, quan hệ xã hội, hoạt động, sinh hoạt của mọi chủ thể pháp luật trên tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày nay, cùng với sự tăng cường các giá trị xã hội của pháp luật, giá trị pháp quyển và sự hoạt động hiệu quả của các cơ quan nhà nước, nội hàm về pháp chế đã có những bước phát triển quan trọng, góp phần làm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh hơn. Pháp chế là “sự hiện diện của một hệ thống pháp luật hoàn thiện và sự đòi hỏi phải tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành một cách chính xác, thường xuyên, thống nhất bởi nhà nước và xã hội, nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của toàn xã hội thống nhất, đồng bộ, vì một xã hội công bằng, văn minh”. Đến Hiến pháp năm 2013, “pháp chế” không còn được quy định cụ thể. Chỉ có thể thấy được tinh thần nguyên tắc pháp chế qua các quy định như: Khoản 1 Điều 8 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”. Sự thay đổi này đã làm cho không ít người cho rằng khái niệm, quan niệm về “pháp chế” đã lỗi thời, đã được thay thế bởi khái niệm, quan niệm về pháp quyền cũng như nhà nước pháp quyền

Nói đến pháp chế là nói tới pháp luật, sự hoàn thiện của pháp luật và sự đòi hỏi phải tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành một cách chính xác, nghiêm minh của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Kết quả của pháp chế sẽ tạo nên đời sống xã hội có trật tự, kỷ cương, tồn tại và phát triển vì con người. Để đạt được điều đó, các nội dung của pháp chế không thể tách rời các phương thức thực hiện công lý. Cụ thể:

Pháp chế luôn đòi hỏi sự hiện diện của hệ thống pháp luật hoàn thiện.

Trong xã hội bảo đảm pháp chế, các quan hệ xã hội quan trọng, đặc biệt là các quan hệ liên quan đến thực hiện quyền lực nhà nước, các quyền và lợi ích thiết thân của người dân luôn cần được điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ của công dân để kiểm tra, giám sát công quyển, còn công quyền là đối tượng chịu sự kiểm soát của pháp luật. Lúc này, phương thức thực hiện công lý đúng đắn trong việc thiết lập nội dung, hình thức các quy định pháp luật sẽ góp phần xây dựng các quy phạm pháp luật có chất lượng, tạo nên một trật tự hiến pháp vững chắc để pháp luật có thể điều chỉnh hiệu quả trong đời sống xã hội.

Pháp chế gắn liền với dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân là chủ và dân làm chủ”. Quan niệm về dân chủ như vậy là cách hiểu giản dị, không có tính hàn lâm, nhưng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc. Trong mối quan hệ trực tiếp với việc sử dụng quyền lực nhà nước, dân chủ được thể hiện trong hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện(5). Ngoài các hình thức vừa nêu, còn có các hình thức dân chủ rất quan trọng khác gắn với quyền công dân như: quyền được thông tin, quyền tự do báo chí, quyền biểu tình…

Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế là quan hệ lớn, cơ bản của đời sống chính trị - pháp lý của xã hội được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII và trong nhiều văn bản khác của Đảng. Đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước… Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.

Pháp chế đòi hỏi nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.

Điều này đòi hỏi toàn bộ các cơ quan nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo đúng Hiến pháp và pháp luật; đồng thời hệ thống pháp luật phải đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã hội, phải thể hiện các giá trị tiến bộ như sự tự do, nhân đạo, công bằng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Ở góc độ thực hiện công lý, pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật phải luôn dựa trên pháp luật, tôn trọng trật tự hiến pháp và tôn trọng những nội dung của công lý; trong đó, Tòa án khi thực hiện chức năng xét xử, phải có nhiệm vụ bảo vệ công lý để phán quyết của Tòa án có sức thuyết phục, chấm dứt những vụ việc tranh cãi pháp lý.

ét về nội dung, pháp chế bao gồm các yêu cầu cơ bản sau:  

- Sự thống nhất của pháp chế. Điều này có nghĩa là pháp luật phải được thực hiện thống nhất ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tính thống nhất của pháp chế nhằm bảo đảm cho các quyết định chung của cả nước, của chính quyền Trung ương được thực hiện thống nhất. 

- Pháp chế bắt buộc chung đối với mọi cá nhân, tổ chức, bởi pháp luật có tính chất bắt buộc thi hành bình đẳng đối với mọi chủ thể, không có ngoại lệ, đặc quyền.

- Tính tối cao của Hiến pháp. Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, là cơ sở tiên quyết cho các quyết định, hành vi của mọi chủ thể pháp luật.

- Pháp chế gắn chặt với thực tiễn sinh động của cuộc sống. Bảo đảm tính thống nhất trong việc tổ chức thi hành pháp luật phải gắn với đời sống xã hội hết sức đa dạng, phong phú. Vì vậy, đảm bảo pháp chế trong tổ chức thi hành pháp luật là văn bản luật phải được triển khai thực hiện phù hợp với các điều kiện thực tế để vừa đạt được yêu cầu về tính thống nhất, vừa có hiệu quả cao nhất. 

- Bảo đảm và bảo vệ quyền của công dân. Cũng như dân chủ, pháp chế không thể không đặt ra các đòi hỏi về bảo đảm và bảo vệ quyền của công dân, đặc biệt khi dân chủ và nhân quyền đang là dòng chảy chủ đạo chung của sự phát triển mang tính toàn cầu. Ngoài ra, pháp chế còn liên quan đến những vấn đề khác như các biện pháp bảo đảm pháp chế, quan hệ với nhà nước, các đảng phái, tổ chức xã hội... có thể xem đó là nhóm lý luận về pháp chế.     

Các tổ chức, cá nhân phải luôn hành động, xử sự hợp pháp.

Trong xã hội, việc củng cố pháp chế không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của các tổ chức và cá nhân. Các tổ chức phi nhà nước phải được thành lập hợp pháp, hoạt động phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, phải có trách nhiệm giáo dục hội viên của mình nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật Cá nhân, công dân phải tôn trọng, thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Để đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý, pháp chế cho phép cá nhân được làm những gì mà pháp luật không cấm, được quyền viện dẫn đến công lý để bảo vệ bản thân trước những quy định pháp luật chưa phù hợp của nhà nước, tuy nhiên khi sử dụng các quyền, tự do dân chủ của mình, cá nhân đó không được xâm hại đến lợi ích, tự do của cá nhân khác và của xã hội. Rõ ràng, công lý luôn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp những nội dung định hướng như sự trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, tôn trọng và yêu cầu được tôn trọng những quyền bản, tôn trọng truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, hướng tới những giá trị tốt đẹp... để góp phần tích cực trong việc thực hiện pháp luật và giữ vững trật tự xã hội. Kết quả của việc thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế như trên sẽ là cơ sở bảo đảm cho hoạt động của bộ máy nhà nước được thống nhất, nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của nhà nước, xã hội phát triển hài hòa, ổn định và đảm bảo công bằng.

4. Quan hệ giữa công lý và điều chỉnh pháp luật

Trong xã hội có giai cấp, pháp luật là phương tiện quan trọng nhất và không thể thiếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội, để tổ chức, quản lý xã hội phù hợp với những mục đích mà nhà nước và xã hội đặt ra. Điều chỉnh pháp luật là quá trình nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, sắp xếp, trật tự hóa và định hướng cho chúng phát triển theo những mục đích nhất định. Điều chỉnh pháp luật khác với tác động pháp luật. Tác động pháp luật là sự tác động của toàn bộ thượng tầng pháp lý đến toàn bộ đời sống xã hội. Sự tác động đó có thể không mang lại kết quả cụ thể và không theo một định hướng rõ ràng. Còn điều chỉnh pháp luật là một bộ phận của sự tác động pháp luật, luôn mang tính mục đích. Điều chỉnh pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, điển hình và được thực hiện bằng những chủ thể cụ thể.

Sự điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội thường xảy ra theo hai hướng:

-  Đối với những quan hệ xã hội phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội, đáp ứng lợi ích của nhà nước và xã hội thì pháp luật sẽ bảo vệ, củng cố và tạo điều kiện cho chúng phát triển.

-  Đối với những quan hệ xã hội không đáp ứng được lợi ích của nhà nước và xã hội, không phù hợp với quy luật phát triển thì pháp luật sẽ ngăn cản, hạn chế sự phát triển và từng bước loại trừ chúng ra khỏi đời sống xã hội.

Điều chỉnh pháp luật là việc (Nhà nước) dùng pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội nhằm thiết lập một trật tự xã hội nhất định. Trong đời sống của một xã hội, pháp luật của Nhà nước ra đời trên một cơ sở kinh tế nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Điều chỉnh pháp luật phải tuân theo cơ chế điều chỉnh pháp luật, đó là một hệ thống thống nhất các phương tiện, quy trình pháp lý, thông qua đó thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những nhiệm vụ, mục đích mà nhà nước đặt ra. Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm: Quy phạm pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật, trách nhiệm pháp lý, pháp chế và chủ thể điều chỉnh pháp luật.

Để điều chỉnh pháp luật được hiệu quả, như phần trên đã đề cập, tính xã hội xoay quanh công lý phải đóng vai trò nền tảng cho tính giai cấp của nhà nước và pháp luật, phải là mặt quan trọng và ưu thế so với mặt giai cấp. Theo đó, những nội dung của công lý và phương thức thực hiện công lý phải đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên những quy phạm pháp luật có chất lượng, một trật tự hiến pháp vững chắc, các quyết định áp dụng pháp luật đúng đắn (trong đó bao gồm những phán quyết của Tòa án bảo vệ được công lý), ý thức pháp luật chuẩn mực, pháp chế được tăng cường, đảm bảo... Kết quả của hoạt động điều chỉnh pháp luật dựa trên nội dung công lý và phương thức thực hiện công lý đúng đắn sẽ là một trật tự xã hội, trật tự pháp luật ổn định, hài hòa và phát triển.

5. Quan hệ giữa công lý và giải thích pháp luật

Giải thích pháp luật là hoạt động làm rõ nội dung, bản chất sự thật của pháp luật, làm cho mọi người hiểu và thực hiện pháp luật thống nhất theo đúng yêu cầu của pháp chế. Giải thích pháp luật là hoạt động cần thiết, được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng pháp luật, quá trình thực hiện pháp luật, trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy pháp luật, trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó quan trọng nhất là quá trình thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật. Đối với các cơ quan nhà nước, nếu không giải thích đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật, sẽ gặp khó khăn trong hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật và cũng như gặp khó khăn trong việc kết luận về văn bản hay quy định pháp luật nào đó là trái với trật tự hiến pháp... để đình chỉ thi hành hay bãi bỏ. Trong một số trường hợp nhạy cảm, việc giải thích pháp luật có thể còn chứa đựng yếu tố chính trị bởi các cơ quan nhà nước có thể giải thích quy định pháp luật theo hướng có lợi nhất cho lực lượng chính trị đang nắm giữ quyền lực ở thời điểm đó...

Cơ quan thường trực của Quốc hội – UBTVQH – là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Giải thích pháp luật được thể hiện ở hai dạng, giải thích chính thức (tức giải thích có giá trị pháp lý, có tính bắt buộc) và giải thích không chính thức (tức giải thích không có giá trị pháp lý, không có tính bắt buộc).

Giải thích pháp luật có liên hệ với các nội dung của công lý để đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật đúng đắn, cụ thể:

- Liên hệ đến nội dung tôn trọng sự thật khách quan của công lý, đòi hỏi việc giải thích pháp luật phải tôn trọng tính chân thật của nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật. Về hình thức, phải làm rõ, chính xác nghĩa từng chữ, từng câu và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng với lời văn của nội dung quy phạm đó. về nội dung, phải tìm hiểu đúng hoàn cảnh chính trị, lịch sử đã dẫn đến việc ban hành quy phạm đó hoặc nhiệm vụ đích thực mà nhà nước muốn đạt được khi ban hành quy phạm pháp luật đó.

-  Liên hệ đến yêu cầu về tính logic hình thức của công lý, đòi hỏi việc giải thích pháp luật phải dùng những suy đoán phù hợp với logic để làm rõ nội dung của quy phạm khi lời văn của quy phạm không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của nhà nước.

-  Liên hệ đến những nội dung khác của công lý còn đòi hỏi, việc giải thích pháp luật phải có sự thống nhất với các nội dung quy phạm khác về tính điều chỉnh tương tự, tính nguyên tắc, về bảo đảm các quyền cơ bản, tôn trọng truyền thống văn hóa, về các giá trị... được quy định trong hệ thống pháp luật đã hình thành nên trật tự hiến pháp. Việc giải thích này được áp dụng khi pháp luật không có quy định trực tiếp. Việc giải thích mở rộng hay giải thích hạn chế đòi hỏi hết sức thận trọng, phải bảo đảm trật tự hiến pháp và công lý thì mới đảm bảo và tăng cường pháp chế.

Tóm lại, công lý được hiểu theo nghĩa rộng nhất, đó là những lẽ đúng đắn được thừa nhận chung trong xã hội, làm cơ sở cho việc phán xét, xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong những mối quan hệ nhất định; hay nói một cách ngắn gọn, công lý là những lẽ chung đúng đắn. Công lý là “hạt nhân hợp lý” của thuộc tính xã hội trong bản chất của nhà nước và pháp luật, thuộc về “tầng sầu” của nhà nước và pháp luật, là yếu tố quan trọng góp phần quản lý xã hội đi vào trật tự, ổn định và phát triển bền vững.

Nội dung của công lý là một hệ thống phức hợp được cấu trúc bởi 07 nội dung cơ bản, mỗi nội dung có những vai trò nhất định, làm cơ sở cho việc phán xét, xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong những mối quan hệ nhất định. Cụ thể là: Sự thật khách quan, sự tôn trọng phẩm giá con người và sự tôn trọng truyền thống, tín ngưỡng đóng vai trò làm cơ sở nền tảng; sự hướng đến các giá trị đóng vai trò là cơ sở mục đích; sự tôn trọng thỏa thuận và bảo đảm quy tắc “có đi có lại” đóng vai trò là cơ sở phương thức thực hiện; sự đảm bảo tính logic hình thức đóng vai trò là cơ sở hình thức thể hiện.

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên hoặc các nội dung khác liên quan tới bài viết Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6162 để được giải đáp thêm.

Trân trọng./

Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty luật Minh Khuê