Mục lục bài viết
1. Xét xử phúc thẩm là gì?
Phúc thẩm là Xét lại vụ án, quyết định đã được tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Là một hoạt động tố tụng trong đó Tòa án cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định do Tòa án cấp sơ thẩm xử mà bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm là gì?
Đình chỉ xét xử phúc thẩm là quyết định của toà án làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm và kết quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn sơ thẩm sẽ được công nhận, theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên được ấn định trong bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được tôn trọng và có hiệu lực thi hành.
3. Quy định Đình chỉ xét xử phúc thẩm
Để phù hợp với thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, thống nhất với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung 01 điều luật để quy định cụ thể căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Cụ thể như sau:
“Điều 348. Đình chỉ xét xử phúc thẩm
1. Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
2. Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút.
3. Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp, Tòa án đã xét xử sơ thẩm, người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị”.
3. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
Điều 342 BLTTHS năm 2015 quy định thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị. Theo đó: Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện Kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; người kháng cáo rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo; Viện Kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị.
So với Điều 238 BLTTHS năm 2003, thì Điều 342 BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, cụ thể:
“2. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải lập văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo cho Viện Kiểm sát, bị cáo và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa.
3. Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần kháng cáo, kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm”.
Theo đó, nếu việc rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa, thì phải lập văn bản thông báo và gửi Tòa án xét xử phúc thẩm. Tòa án xét xử phúc thẩm có trách nhiệm thông báo cho Viện Kiểm sát, bị cáo và những người liên quan đến kháng cáo, kháng nghị biết việc rút kháng cáo, kháng nghị. Nếu việc rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa xét xử thì ghi biên bản phiên tòa. Như vậy, thủ tục rút kháng cáo, kháng nghị có thể áp dụng cho cả 2 trường hợp: rút một phần kháng cáo, kháng nghị và rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện Kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu việc rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà, thì do Hội đồng xét xử thực hiện.
Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện Kiểm sát rút một phần kháng nghị mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác, thì một phần kháng cáo, kháng nghị đã rút phải đình chỉ xét xử. Việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện; tại phiên tòa do Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút đó và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm.
Như vậy, khi rút kháng cáo, kháng nghị, thì hậu quả pháp lý của việc rút là đình chỉ xét xử phúc thẩm (tùy vào mức độ rút mà đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với vụ án hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút).
Một số nội dung không thay đổi so với BLTTHS năm 2003 như: Người kháng cáo có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, Viện Kiểm sát có thẩm quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị; trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ…
Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 342 BLTTHS 2015 có thay đổi đáng kể so với khoản 2 Điều 238 BLTTHS năm 2003, đó là: “Trường hợp rút một phần kháng cáo, Viện Kiểm sát rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần kháng cáo, kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị trong bản án phúc thẩm”.
Liên quan đến nội dung này, khoản 2 Điều 348 BLTTHS 2015 quy định: “Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện Kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút”. Như vậy, thời điểm trước hoặc tại phiên tòa nếu một phần kháng cáo, kháng nghị bị rút mà phần đó không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị còn lại, thì phần kháng cáo, kháng nghị đã rút phải được đình chỉ và Hội đồng xét xử không xem xét đến.
So sánh Điều 241 BLTTHS năm 2003 với Điều 345 BLTTHS năm 2015 quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, khoản 2 Điều 249 BLTTHS năm 2003 với khoản 3 Điều 357 BLTTHS năm 2015 quy định về sửa bản án sơ thẩm đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng nghị thì thấy tinh thần và nội dung không thay đổi: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”…
Quy định về xét xử phúc thẩm nói chung và rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm nói riêng trong BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Có thể thấy, quy định rút kháng cáo, kháng nghị đã ghi nhận việc đề cao tính tự nguyện của chủ thể kháng cáo, kháng nghị và góp phần bảo đảm tính ổn định của bản án, giảm bớt số lượng án mà cấp phúc thẩm phải xét xử đồng thời tiết kiệm nhiều nguồn lực cho người tham gia tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
5. Hội đồng xét xử phúc thẩm có được đình chỉ xét xử hay không?
Theo quy định tại Điều 342 BLTTHS, trường hợp bị cáo rút kháng cáo tại phiên toà thì Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình chỉ vụ án. Xin hỏi nếu trong phần thủ tục, bị cáo không rút kháng cáo, sau khi kết thúc phần tranh luận, Viện kiểm sát đề nghị huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn. Sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu quan điểm, bị cáo sợ, xin rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có được đình chỉ xét xử hay không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 342 BLTTHS năm 2015, trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 348 BLTTHS năm 2015, Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định.
Đối chiếu với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 358 BLTTHS năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm trong trường hợp:“Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm”.
Như vậy, quyền quyết định có hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn hay không theo quan điểm của Viện kiểm sát thuộc về Hội đồng xét xử, do đó, có hai trường hợp xảy ra:
Một là, Hội đồng xét xử chấp thuận quan điểm của Viện kiểm sát, quyết định hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn. Lúc này, dù bị cáo có xin rút kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không chấp thuận. Việc hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 358 BLTTHS năm 2015.
Hai là, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp thuận quan điểm của Viện kiểm sát và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm khi bị cáo xin rút kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 348 BLTTHS. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 348 BLTTHS năm 2015.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm& Biên tập)