Mục lục bài viết
- 1. Việc áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân
- 2. Quy định đầy đủ các biện pháp cần thiết cho quá trình chứng minh tội phạm
- 3. Từng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được điều chỉnh chặt chẽ
- 4. Quy định chặt chẽ và minh bạch căn cứ tạm giam
- 5. Quy định cụ thể căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền
- 6. Các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân quy định chung trong một chương
1. Việc áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 đặt ra nguyên tắc: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Như vậy, chỉ có các đạo luật do Quốc hội ban hành mới được quy định các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân và việc hạn chế cũng chỉ trong những trường hợp đã được Hiến pháp giới hạn. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, thái độ tôn trọng con người, trên cơ sở đó định ra những bảo đảm cao nhất ở tầm “Hiến pháp và luật’ để bảo vệ con người, bảo vệ công dân.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, để đạt được mục đích cao nhất là phát hiện tội phạm và người phạm tội, pháp luật của tất cả các nước đều cho phép áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Song vấn đề cần nhấn mạnh là, không phải bất cứ đối tượng nào cũng có thể bị áp dụng các biện pháp này. Trường hợp cần phải áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân thì phải đáp ứng đầy đủ căn cứ luật định, phải trên cơ sở và chỉ trong khuôn khổ quy định của luật.
Từ những vấn đề nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm cụ thể hóa tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp.
2. Quy định đầy đủ các biện pháp cần thiết cho quá trình chứng minh tội phạm
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã tổng kết thực tiễn và quy định đầy đủ các biện pháp cần thiết cho quá trình chứng minh tội phạm. Theo đó, đã xây dựng một chương mới (Chương XVI) nhằm luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, phát huy hiệu lực của nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm (gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử); bổ sung vào hệ thống các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng (Điều 124 và Điều 129).
Điều 223 BTTHS 2015 quy định các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được tiến hành trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật về lĩnh vực âm thanh, hình ảnh, điện tử viễn thông, trình độ của chuyên viên công nghệ thông tin… bí mật thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến đối tượng bị áp dụng nhằm phục vụ công tác điều tra, khám phá tội phạm. Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; Thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép ghi nhận hình ảnh với độ phân giải tốt, âm thanh chất lượng và những thông tin, tài liệu khác, đồng thời đảm bảo yếu tố bí mật với đối tượng áp dụng và những người không liên quan.
Điều 224 BTTHS 2015 quy định đối tượng áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể là con người như cá nhân, đối tượng nghi thực hiện tội phạm hoặc ổ nhóm tội phạm, hoặc cũng có thể là địa điểm nơi có thể xảy ra tội phạm, tồn tại những tin tức, tài liệu, dấu vết cần theo dõi, tìm kiếm thu thập trong quá trình giải quyết vụ án.
Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
Những biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép ghi nhận hình ảnh với độ phân giải tốt, âm thanh chất lượng và những thông tin, tài liệu khác, đồng thời đảm bảo yếu tố bí mật với đối tượng áp dụng và những người không liên quan.
Để tránh sử dụng tràn lan và đảm bảo hiệu quả cao trong việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Bộ luật quy định có thể áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với các tội phạm: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là những loại tội phạm có tổ chức chặt chẽ, phương thức, thủ đoạn phạm tội và che dấu tội phạm hết sức tinh vi, xảo quyệt, đối tượng phạm tội thường ngoan cố, chống đối đến cùng, thiếu hợp tác với Cơ quan tố tụng dẫn tới các biện pháp điều tra tố tụng thông thường không mang lại hiệu quả hay hiệu quả thấp. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép Cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh tội phạm, xác định nhanh chóng, chính xác, toàn diện vụ án, chứng minh tội phạm và người phạm tội, truy nguyên tài sản bị tội phạm chiếm đoạt.
3. Từng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được điều chỉnh chặt chẽ
Bộ luật TTHS 2015 bảo đảm từng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được điều chỉnh chặt chẽ bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.
Ví dụ như việc áp dụng biện pháp tạm giam:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.
Về căn cứ áp dụng: Tạm giam chỉ bị áp dụng với bị can, bị cáo. Trường hợp thứ nhất, bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Trường hợp thứ hai, bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau: “Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Ngoài ra, Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.” (khoản 2, 3 Điều 119 BLTTHS). Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên các bị can, bị cáo áp dụng bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Về thẩm quyền áp dụng: Những người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSQS các cấp; Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án TAQS các cấp; Hội đồng xét xử.
Về thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh, quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền. Lệnh, quyết định tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh, quyết định; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng, tránh nhầm lẫn. Đồng thời thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết được sự việc để tránh những trường hợp phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết gây tốn kém.
4. Quy định chặt chẽ và minh bạch căn cứ tạm giam
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định chặt chẽ và minh bạch căn cứ tạm giam thay cho quy định có tính chất định tính trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm chống sự tùy nghi, lạm dụng (Điều 119).
Bộ luật TTHS 2015:
...
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
….
Bộ luật TTHS 2003:
Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
...
5. Quy định cụ thể căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền
Bộ luật TTHS 2015 quy định cụ thể căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp này trong thực tiễn (Điều 121, 122).
Ví dụ như căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh:
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định tại Điều 8 Bộ luật TTHS, các biện pháp ngăn chặn được áp dụng, huỷ bỏ và thay đổi dựa trên hai tiêu chí cơ bản được áp dụng để đánh giá: tính hợp pháp và/hoặc sự cần thiết.
Khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan THTT có thể quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam. Như vậy, việc thay thế tạm giam bằng bảo lĩnh phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan THTT qua việc đánh giá sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp tạm giam trong từng trường hợp cụ thể. Đối với trường hợp bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, sau khi quyết định tạm giam mà có đủ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm, cơ quan THTT cần thay thế ngay biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm.
6. Các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân quy định chung trong một chương
Về kỹ thuật lập pháp, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã thu hút toàn bộ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân để điều chỉnh chung trong một chương nhằm bảo đảm tính chặt chẽ và nhất quán trong việc quy định các biện pháp này, đồng thời, quá trình thực thi luật sẽ tạo điều kiện để các cơ quan chuyên môn thuận tiện trong áp dụng và nhân dân dễ giám sát.
Cụ thể: Bộ luật TTHS 2015 dành hẳn một chương VII quy định về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Trong chương này, các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế được quy định cụ thể, chi tiết từ căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng đến thời gian áp dụng.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)