Mục lục bài viết
1. Bị hại có được vắng mặt trong phiên tòa xét xử không?
Luật sư trả lời:
Trước hết, thay mặt bộ phận tư vấn pháp luật công ty TNHH Luật Minh Khuê cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến cho chúng tôi. Vấn đề của bạn chúng tôi đã nghiêm cứu và trả lời bạn như sau:
Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn đã bị trộm mất một chiếc điện thoại iphone 6s, bạn đã bắt được người lấy trộm và giao cho cơ quan công an. Vì vậy, theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bạn sẽ tham gia phiên tòa xét xử với tư cách là:
1. Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Để xác định việc bạn có thể vắng mặt trong phiên tòa xét xủ hay không thì cần phải tìm hiểu nhưng quyền và nghĩa vụ của anh trong tố tụng tại tòa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bạn sẽ có những quyền và nghĩa vụ như sau:
2. Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:
a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
b) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
đ) Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
g) Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
h) Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
i) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
k) Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
l) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
4. Bị hại có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
5. Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này.
Như vậy, theo quy định thì bạn phải có mặt theo giấy Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; Tuy nhiên bạn không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên theo Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì:
1. Nếu bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Trường hợp xét thấy sự vắng mặt của bị hại, đương sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo quy định của pháp luật.
Như vậy, bạn hoàn toàn có thể vắng mặt tại phiên tòa xét xử.
2. Xét xử vụ án hình sự vắng mặt người bị hại?
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến gọi:1900.6162
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì:
"Điều 292. Sự có mặt của bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ
1. Nếu bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Trường hợp xét thấy sự vắng mặt của bị hại, đương sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo quy định của pháp luật."
Trong trường hợp của bạn, con gái bạn là người bị hại trong vụ án này, và bạn được xác định là người đại diện theo pháp luật của con mình. Vì vậy, khi vụ án được đưa ra xét xử, khi vắng mặt thì bạn cần phải có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án này. Theo đó, tại khoản 3 Điều 320 Bộ luật này cũng có quy định:
"3. Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến. "
Nếu bạn tham gia phiên tòa, thì bạn được phát biểu, trình bày ý kiến để bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình, tức là bạn được phát biểu ý kiến về việc mong muốn Tòa án xét xử người phạm tội với hình phạt như thế nào: có được hưởng án treo hay không? Có bị chấp hành hình phạt tù không, nếu có thì bao nhiêu năm tù...? Cũng như về vấn đề bồi thường thiệt hại về thể chất cũng như tinh thần cho con gái bạn. Vì đây là những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của côn gái bạn, cũng như về việc thể hiện ý muốn trừng phạt đối với hành vi phạm tội với con gái mình. Vì vậy, Tòa án yêu cầu bạn trình bày những quan điểm của mình về vấn đề này là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho con gái bạn, gia đình bạn khi bạn vắng mặt tại phiên tòa.
>> Tham khảo bài viết liên quan: Tư vấn trường hợp được xét xử vắng mặt ?
3. Tư vấn trường hợp được xét xử vắng mặt?
Luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Thứ nhất, về việc trong thời gian chấp hành nghĩa vụ quân sự có bị Toà án triệu tập không ?
Theo khoản 2 Điều 71, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn
“2. Thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện.”
Theo Điều 214, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 : Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
"1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây:a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
b) Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
c) Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án;
đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;
e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;g) Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản;
h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.”
Theo Điều 216, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ.
"Điều 216. Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp.Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự..”
Theo Điều 217, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Điều 217. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;d) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết;g) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không đề nghị xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì giải quyết như sau:a) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;b) Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn;c) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cần độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
3. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu có yêu cầu; trong trường hợp này, Tòa án phải sao chụp và lưu lại để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ngoài ra, theo Điều 203, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Thời hạn chuẩn bị xét xử
Điều 203. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
4. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử nhiều nhất đối với vụ án dân sự là sáu tháng, trong thời hạn một tháng ( hoặc hai tháng trong trường hợp có lý do chính đáng) kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà. Vì vậy, thời hạn để Toà án mở phiên toà giải quyết vụ án dân sự không được quá tám tháng kể từ thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử. Mà trong trường hợp của bạn từ tháng 10 năm 2013 đến nay đã gần được 2 năm rồi mà Toà án vẫn chưa mở phiên toà. Do đó, vụ án dân sự của cháu bạn có thể đã bị tạm đình chỉ (theo Điều 214, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) hoặc bị đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (theo Điều 217, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Như thế, bây giờ cháu bạn đang trong thời gian chấp hành nghĩa vụ quân sự vẫn có thể bị Toà án thông báo triệu tập nếu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ nếu lý do tạm đình chỉ không còn, hoặc nguyên đơn khởi kiện lại cháu bạn nếu vụ án dân sự này trước đó đã bị Toà án quyết định đình chỉ.
Thứ hai, về việc trong thời gian chấp hành nghĩa vụ quân sự, nếu bị Toà án gọi có được xét xử vắng mặt.
Theo Điều 227, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
"1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tòa án thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên tòa.
2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý như sau:
a) Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
b) Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập có người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
d) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.”
Theo Điều 228, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên tòa
"Điều 228. Xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên tòa
Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:1. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa;
3. Các trường hợp quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật này.”
Như vậy, nếu cháu bạn không có mặt tại phiên toà vẫn có thể được xét xử vắng mặt. Nếu cháu bạn có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt ( theo khoản 1, Điều 228, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Mặt khác, nếu cháu bạn không có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt, thì Toà án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, mà cháu bạn và người đại diện của cháu bạn cũng không tham gia phiên toà và việc vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì Toà án xét xử vắng mặt cháu bạn.
4. Nâng cao năng lực xét xử cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán
Mặc dù, ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… tình trạng gái bán dâm tụ tập đông, đứng đường công khai mời chào khách nơi công cộng đã giảm về bề nổi nhưng hoạt động mại dâm ngày càng được tổ chức tinh vi, trá hình dưới nhiều hình thức, môi giới mại dâm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, bằng các thủ đoạn tiếp thị, môi giới trên mạng, tổ chức môi giới hôn nhân trái pháp luật bằng hình thức “coi mặt, chọn vợ”, múa lửa, trò chuyện tâm lý, mại dâm nam, …khiến cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này của các cơ quan chức năng ngày càng khó khăn.
Thực hiện Quyết định số 52/2006/QĐ-TTg ngày 08/3/2006 của Thủ tướng chính phủ ban hành Chương trình phối hợp liên ngành phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2006-2010, Toà án nhân dân tối cao phối hợp với các cơ quan tư pháp ở trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương nhận thức đúng tính chất và yêu cầu cấp bách của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về mại dâm; áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, khẩn trương phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các hành vi phạm tội.
Thời gian qua, Toà án nhân dân các cấp đã đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh nhiều vụ án lớn, trọng điểm được dư luận hết sức quan tâm như: Vụ án ca sỹ Lâm Nhật Anh, Trần Thị Phố, Phan Văn Trò tức Hiếu ‘Pê đê”... tại thành phố Hồ Chí Minh (trong đó các “má mì” vừa là gái bán dâm vừa là kẻ môi giới); Vụ án Lương Thị Duyên cùng đồng bọn “môi giới mại dâm”, hầu hết các bị cáo đều còn trẻ, có bị cáo chỉ có 17, 18 tuổi nhưng hành vi phạm tội thì hết sức nguy hiểm, các bị cáo liên kết lại với nhau dụ dỗ, cưỡng ép các em còn đang đi học để “bán trinh” cho một số cán bộ nhà nước đã bị biến chất; Vụ án ca sỹ người Anh G. Glitter đến Việt Nam dưới danh nghĩa là khách du lịch và đã dụ dỗ, cho tiền, đưa các em gái lang thang đi chơi để thực hiện hành vi dâm ô (Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tuyên phạt bị cáo 3 năm tù giam); Vụ án Lê Quốc Dũng, trú tại Như Xuân -Thanh Hoá và đồng bọn đã lừa 47 phụ nữ và trẻ em đưa sang Trung Quốc bán vào nhà hàng để làm gái mại dâm (Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng tuyên phạt Lê Quốc Dũng, Hoàng Xuân Trung mỗi bị cáo 30 năm tù về tội mua bán phụ nữ và trẻ em).
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoại gọi: 1900.6162
Trong 5 năm 2006-2010, toàn ngành Toà án nhân dân đã thụ lý 3.884 vụ với 5.345 bị cáo phạm các tội về mại dâm để xét xử theo thủ tục sơ thẩm; đã xét xử 3.542 vụ với 4.866 bị cáo; đạt tỷ lệ xét xử 91.2% về số vụ và 91% số bị cáo; Trong số 4866 bị cáo bị đưa ra xét xử, xử phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm có 219 bị cáo; trên 3 năm đến 7 năm 1.572 bị cáo; tù từ 3 năm trở xuống 1.886 bị cáo...Ngoài việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hình phạt chính, các Toà án còn áp dụng các hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản do phạm tội mà có của kẻ phạm tội. Trong số bị cáo đã xét xử số bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm chiếm 4%, bị cáo là dân tộc ít người chiếm 3,2%; Số tội phạm là nữ chiếm tỷ lệ khá cao ở loại tội này (trên 47%), độ tuổi của các ‘má mì’ có xu hướng trẻ hoá, chủ yếu xuất thân từ nông thôn và hầu hết đã trải qua nghề “gái bao” nên có nhiều thủ đoạn để trốn tránh pháp luật.
Bên cạnh việc xử lý các bị cáo là chủ chứa, môi giới mại dâm, Toà án các cấp đã xét xử 114 vụ án với 178 bị cáo phạm tội mua dâm người chưa thành niên và trong đó số bị cáo là cán bộ là công chức Nhà nước giữ địa vị nhất định trong xã hội như vụ án Sầm Đức Xương (Hiệu trưởng trường PTTH Việt Lâm ở Hà Giang), Lưu Quang Vinh (Hạt trưởng hạt kiểm lâm thị xã Sơn Tây- Hà Tây)...
Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh phí, phương tiện nhưng công tác xét xử lưu động các vụ án về mại dâm luôn được ngành Toà án quan tâm, coi trọng. Quán triệt chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương đã tổ chức xét xử lưu động nhiều vụ án mại dâm ở hầu hết các địa bàn trong cả nước và tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết tốt các vụ án về mại dâm. Hầu hết các vụ án này đều được đưa ra xét xử kịp thời, trong thời hạn luật định.
Trong công tác xét xử các vụ án mại dâm, về cơ bản các Toà án đã áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, thực hiện tốt việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại các phiên toà hình sự nên đã xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc xét xử oan và bỏ lọt tội phạm; các vụ án đều được đưa ra xét xử đúng thời hạn quy định của pháp luật, không có án tồn đọng. Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa và số người bị kết án oan năm sau giảm hơn so với năm trước. Nhìn chung, hình phạt mà các Tòa án đã áp dụng đối với các bị cáo phạm các tội mại dâm đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.
Mặc dù đã đạt được những kết quả công tác nêu trên, nhưng trong công tác xét xử các vụ án về mại dâm vẫn còn những tồn tại, thiếu sót như: Việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại các văn bản như Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 và các Chỉ thị, Công văn của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo về công tác xét xử một số loại tội phạm gây bức xúc trong tình hình hiện nay trong đó có các vụ án về mại dâm còn nhiều trường hợp chưa chấp hành đúng các hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nên áp dụng không đúng nên dẫn tới quyết định hình phạt quá nhẹ, xử dưới khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn không có căn cứ. Cũng còn không ít bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ nhưng không có căn cứ, không có sức thuyết phục và không phải là mẫu mực cho Tòa án cấp sơ thẩm học tập.
Trước thực trạng nêu trên, ngành Tòa án nhân dân đã đưa ra nhiều giải pháp để khắc phục các hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử về chuyên môn như: Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Toà án các cấp, phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường trách nhiệm cá nhân; làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động Toà án theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả; phân công, phân nhiệm và phân cấp rõ ràng trong từng lĩnh vực công tác…trong đó đặc biệt chú trọng đến giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán trong công tác xét xử.
Hàng năm, tại các Hội nghị tổng kết công tác của ngành, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã chỉ đạo việc triển khai tổ chức các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm của ngành Tòa án nhân dân luôn nhấn mạnh về công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ, công chức trong toàn ngành phải được tiến hành thường xuyên, trong đó chú trọng việc tập huấn các văn bản pháp luật mới, kỹ năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền mới, rút kinh nghiệm về công tác xét xử phúc thẩm cho đội ngũ Thẩm phán và tập huấn các kiến thức liên quan tới công tác xét xử các vụ án hình sự và đặc biệt chú ý tới một số loại tội phạm gây bức xúc trong tình hình hiện nay, trong đó có các vụ án về mại dâm.
Để nâng cao chất lượng công tác xét xử các tội phạm nói chung và các tội mại dâm nói riêng, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 trong đó có hướng dẫn rất cụ thể về tình tiết phạm tội nhiều lần, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 254 về tội chứa mại dâm của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao còn ban hành nhiều văn bản trao đổi nghiệp vụ, nhằm tháo gỡ những vướng mắc của các Toà án nhân dân địa phương trong quá trình giải quyết các vụ án, đảm bảo việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong những năm gần đây, Toà án nhân dân tối cao đã phối hợp với Bộ Tư pháp chiêu sinh cán bộ Toà án các cấp đạt tiêu chuẩn tham gia khoá đào tạo nghiệp vụ xét xử, để tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Ngành Toà án cũng bước đầu thực hiện việc chọn cử cán bộ đủ tiêu chuẩn đi đào tạo ở nước ngoài theo Đề án của Chính phủ về việc “đào tạo luật sư, chuyên gia pháp luật” phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Toà án nhân dân tối cao đã tiến hành tập huấn các kiến thức liên quan tới công tác xét xử hình sự nhiều lần cho hơn 1.000 Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, đồng thời phối hợp với các Dự án quốc tế mở nhiều buổi hội thảo với nội dung liên quan tới công tác xét xử các vụ án về buôn bán người trong đó có các trường hợp đưa phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài làm mại dâm với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực này.
Được sự hỗ trợ của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực cho các cơ quan tư pháp và hành pháp phòng , chống buôn bán người ở Việt Nam”, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Interpol Việt Nam soạn thảo cuốn Sổ tay “Một số kỹ năng về truy tố, xét xử các phạm buôn bán người”; và Bộ tài liệu tập huấn “Công tác bảo vệ nạn nhân trong quá trình truy tố, xét xử các tội phạm buôn bán người”…các Bộ tài liệu này được biên soạn tập trung vào các nội dung cơ bản: Kỹ năng truy tố; Xét xử; Tương trợ tư pháp và bảo vệ nạn nhân trong các vụ buôn bán người, giúp cho cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ án về mua bán người trong đó có các vụ án liên quan đến hành vi đưa phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài làm gái mại dâm. Thực hiện tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam “ Về chiến lược cải cách đến tư pháp đến năm 2020”, hiện nay, Toà án nhân dân tối cao đang triển khai xây dựng đề án “Nâng cao năng lực và quy mô đào tạo, bồi dưỡng của Trường Cán bộ Tòa án” để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân.
Đội ngũ Thẩm phán ngành Toà án nhân dân cũng không ngừng được tăng cường, toàn ngành hiện có 4393 Thẩm phán Toà án các cấp, trong đó Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là 113 người, có trình độ trên đại học chiếm (11%); trình độ đại học luật (89%); Thẩm phán Toà án nhân cấp tỉnh là 1003 người; có trình độ trên đại học (3%), trình độ đại học luật (92%); Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện là 3.277 người; trình độ trên đại học (0,9%), và trình độ đại học luật (93,7%) …. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận chính trị của đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp đã được nâng cao hơn so với những năm trước đây, số Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu đều có trình độ cử nhân luật, được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có phẩm chất đạo đức và khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục thực hiện Chương trình phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2011-2015, căn cứ vào tình hình tội phạm và nhiệm vụ của ngành Toà án nhân dân, trên cơ sở đánh giá những kết quả đã đạt được và những khuyết điểm thiếu sót còn tồn tại trong giai đoạn 2005-2010, ngành Toà án nhân dân xác định một số nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp trong công tác phòng, chống tội phạm mại dâm như:
Chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát việc thực hiện Chương trình phòng, chống tội phạm về mại dâm; Tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về mại dâm nói riêng, gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của ngành với việc thực hiện các yêu cầu của Chương trình phòng, chống tội phạm về mại dâm;
Phân công cán bộ, Thẩm phán có năng lực, trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để xét xử các vụ án mại dâm; thường xuyên phối hợp, họp bàn với các cơ quan tiến hành tố tụng để đề ra những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án và lựa chọn các vụ án trọng điểm đưa ra xét xử lưu động tại các địa bàn phức tạp, đảm bảo nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về mại dâm; Đảm bảo các vụ án này được tiến hành chính xác, đúng pháp luật không để quá hạn luật định, tồn đọng; kiên quyết không xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm;
Phối hợp với các cơ quan tư pháp Trung ương ban hành các văn bản pháp luật nhằm hướng dẫn áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và khẩn trương nghiên cứu, giải đáp những vấn đề về nghiệp vụ hoặc những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, giúp cho các Toà án các cấp áp dụng đúng pháp luật để ngày càng nâng cao chất lượng công tác xét xử các vụ án về mại dâm;
Tiếp tục kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức theo quy định; Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, từng bước nâng cao trình độ, kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án đáp ứng yêu cầu công tác xét xử nói chung và xét xử các vụ án về mại dâm nói riêng;
Quan tâm cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ chính sách; bổ sung kinh phí hoạt động cho Toà án các cấp để tổ chức xét xử tốt các vụ án về mại dâm, đặc biệt là các vụ án điểm; đồng thời, tăng cường công tác xét xử lưu động, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân.
5, Bị đơn vắng mặt toà án có xét xử không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, bị đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng, phải hoãn phiên toà. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, Toà án vẫn xét xử vắng mặt họ.
Mặc dù bị đơn bị xét xử vắng mặt nhưng họ vẫn được quyền kháng cáo. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo (15 ngày) sẽ tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Việc niêm yết bản án được quy định như sau:
Việc niêm yết công khai bản án chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp.
Việc niêm yết công khai bản án do Toà án trực tiếp hoặc uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:
- Niêm yết bản chính tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
- Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết.
Nếu hết 15 ngày, kể từ ngày niêm yết, bị đơn không có đơn kháng cáo thì bản án sơ thẩm có hiệu lực thi hành.
(MINH KHUE LAW FIRM: Biên tập)
Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi số: 1900.0159 để được giải đáp.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Hình sự - Công ty luật Minh Khuê