1. Khái niệm về hợp đồng mua bán quốc tế

Hợp đồng mua bán là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó một bên là người bán có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia, là người mua, một tài sản nhất định gọi là hàng hóa - đối tượng của hợp đồng, còn người mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả một số tiền ngang bằng trị giá của hàng.

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dù được ký kết hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng, bao gồm tất cả những vấn đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Điều này có nghĩa là, mỗi một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã được ký kết, là một cơ sở pháp lý quan trọng để các bên dựa vào đó xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, để các bên tự kiểm tra lại mình và kiểm tra đối phương. Nhưng, trong thực tế lại thường xảy ra những trường hợp mà tranh chấp phát sinh giữa các bên lại không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng: Trường hợp này, các bên phải dựa vào luật điều chỉnh hợp đồng, tức là dựa vào luật được áp dụng cho hợp đồng đó để giải quyết tranh chấp. Không chỉ các bên đương sự phải tìm hiểu luật áp dụng cho hợp đồng mua bán đã ký kết mà cả Tòa án (hoặc Trọng tài), được giao giải quyết tranh chấp phát sinh, cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng đó thì mới có thể làm tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình.

2. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại

Pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được hiểu là tổng thể quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.

Nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại bao gồm:

- Những quy định về bản chất, chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại;

- Những quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại;

- Những quy định về thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại;

- Những quy định về trách nhiệm vật chất (chế tài thương mại) do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại;

Ngoài ra, trong nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, còn có những quy định về hợp đồng vô hiệu, về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng.

Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế (international private law), trong mua bán quốc tế, cảc bên đương sự hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ưóc quốc tế về thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế và thậm chí cả các án lệ.

Song, điều quan trọng là ở chỗ nên chọn nguồn luật nào, làm thế nào để chọn luật thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình. Vấn đề này thật không đơn giản, cần phải nghiên cứu tất cẳ các nguồn luật nói trên và cách áp dụng cũng như vai trò giá trị pháp lý của từng nguồn luật đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

3. Điều ước quốc tế là gì?

Theo Công ước viên năm 1969, Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì.

=> Như vậy, Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế, do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông qua các quy phạm gọi là quy phạm điều ước. Điều ước quốc tế có thể là phổ cập hoặc không phổ cập, toàn cầu hoặc khu vực, đa phương hoặc song phương.

– Luật điều chỉnh Điều ước quốc tế là Công ước viên 1969.

4. Đặc điểm của Điều ước quốc tế

Bao gồm: Chủ thể, nội dung, hình thức của điều ước quốc tế. 

4.1. Chủ thể của Điều ước quốc tế

Chủ thể của điều ước quốc tế phải là các chủ thể của Luật quốc tế, bao gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của Luật quốc tế.

4.2. Hình thức của Điều ước quốc tế

– Điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản. Trước đây, trong quan hệ quốc tế có sự xuất hiện của một số điều ước quân tử (bất thành văn), tuy nhiên các điều ước loại này hiện nay hầu như không còn tồn tại trong quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế.

– Tên gọi của điều ước quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào phạm vi và nội dung của điều ước, mà điều ước quốc tế có thể có một số tên gọi khác nhau như: Hiệp ước, công ước, định ước, nghị định thư, hiệp định…

– Kết cấu của điều ước quốc tế bao gồm các phần: Lời nói đầu, nội dung chính, phần cuối cùng, phụ lục.

– Ngôn ngữ của điều ước quốc tế: Thông thường, điều ước quốc tế song phương thường được soạn thảo bằng ngôn ngữ của cả 2 bên (trừ khi có thỏa thuận khác). Riêng đối với các điều ước quốc tế đa phương phổ cập thường được soạn thảo bằng các ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên hợp quốc đó là: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập.

4.3. Nội dung của Điều ước quốc tế

Nội dung của điều ước quốc tế là những nguyên tắc, quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên kí kết, có giá trị pháp lí ràng buộc đối với các bên. Những nguyên tắc, quy phạm này phải được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là bình đẳng và tự nguyện.

5. Điều ước quốc tế về thương mại

Một khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế liên quan đến vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng, các bên kí kết hợp đồng có thể dựa vào các điều ước quốc tế về thương mại. Do đó, điều ước quốc tế về thương mại là nguồn luật đầu tiên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Có hai loại điểu ước quốc tế về thương mại. Loại thứ nhất đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động ngoại thương nói chung và mua bán xuất nhập khẩu, mua bán quốc tế nói riêng. Những điều ước quốc tế này (có thể là song phương hoặc đa phương, khu vực hoặc toàn cầu) không điểu chỉnh các vấn đề về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

tế mà chỉ nêu những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo. Ví dụ như Hiệp định Thương mại song phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ hoặc các Hiệp định Thương mại đa phương như Hiệp định GATT năm 1994, Hiệp định GATS/WTO v.v... trong đó các quốc gia ký kết đưa ra các nguyên tắc: Tối huệ quốc về thương mại, (Most Favoured Nation - MFN) nguyên tắc có đi, có lại về thương mại, nguyên tắc đôi xử quốc gia... Loại điều ước này chỉ điều chỉnh gián tiếp các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Loại điều ước quốc tế về thương mại thứ hai là những điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của bên bán và bên mua trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Loại này đóng vai trò quan trọng, giúp các bên có thể giải quyết được tranh chấp cụ thể đã phát sinh từ hợp đồng ký kết. Ví dụ về các loại này có thể dẫn ra Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trong đó quy định thủ tục ký kết hợp đồng mua bán; quyển và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng...

Với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, vai trò của hai loại điều ước quốc tế về thương mại nói trên phụ thuộc vào giá trị pháp lý của chúng đối vổi hợp đồng mua bán hàng hốa quốc tế.

Đối với những điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc đã thừa nhận, chúng có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có liên quan. Những điều ước quốc tế này là nguồn luật đương nhiên, các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể dựa vào chúng mà không cần phải có sự thỏa thuận riêng nào trong hợp đồng. Điều này có nghĩa là, dù các bên mua và bán có dẫn chiếu tới hay không dẫn chiếu tới thì các điều ước quốc tế vẫn đương nhiên được áp dụng. Những điều ước quốc tế này đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hợp đồng ngoại thương.

Song, hiện nay, ngoại trừ một số điều ước quốc tế về thương mại điều chỉnh gián tiếp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nước ta chưa ký, chưa tham gia một điều ước song phương hoặc đa phương nào điều chỉnh trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Những điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta không ký, chưa ký hoặc không thừa nhận thì không có giá trị bắt buộc đôi với các thương nhân - chủ thể về phía bên Việt Nam trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Những điều ước quốc tế này không phải là nguồn luật đương nhiên của hợp đồng mua bán do các thương nhân Việt Nam ký kết với thương nhân nước ngoài. Chúng chỉ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nếu các bên thỏa thuận dẫn chiếu tới chúng trong hợp đồng. Ví dụ: cho đến nay Việt Nam vẫn chưa tham gia Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế, cho nên Công ước này chỉ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà các thương nhân Việt Nam đã ký với các thương nhân nước ngoài nếu trong hợp đồng mua bán ngoại thương có các điều khoản quy định sẽ áp dụng Công ước Viên, hoặc hai bên thỏa thuận với nhau sẽ dựa vào Công ước Viên để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Nếu không có sự thỏa thuận đó, Công ước Viên sẽ không có ý nghĩạ và không có bất kỳ giá trị pháp lý nào đôi với các thương nhân Việt Nam, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Khi áp dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cần phải chú ý đến tính chất pháp lý của các loại quy phạm pháp luật có trong điểu ước quốc tế đó. Nếu là các loại quy phạm có tính chất mệnh lệnh, các bên đương sự chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải tuyệt đối tuân thủ. Nếu làm sai, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ không có hiệu lực. Nếu là quy phạm có tính chất tùy ý, các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo. Nếu trong các điều ước quốc tế về thương mại (mà Chính phủ Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc do các bên dẫn chiếu tối) có những quy định khác với luật pháp Việt Nam thì, dựa theo Điều 5 khoản 1 của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 và Điều 759 khoản 2 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 (được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực từ 01/01/2006) có thể có hai cách giải quyết:

- Một là, đối với điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết và phê chuẩn, chúng ta sẽ phải tuân theo những quy định trong điều ước quốc tế đó;

Điều 5 khoản 1 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp điểu ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”

- Hai là, đối với điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với luật pháp của Việt Nam (nghĩa là có thể chỉ áp dụng từng chương, mục, từng điểu khoản nào không trái với luật Việt Nam, còn những chương, mục, nhưng quy định nào trái với luật Việt Nam, chúng ta có quyền bảo lưu không áp dụng).

Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm pháp luật thực chất đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào điều ước quốc tế, các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dù ở các nước khác nhau, có thể sẽ có một sự hiểu thống nhất trong việc giải quyết nhanh chóng tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian. Song hiện nay, đổì với Việt Nam chúng ta, vì nước ta chưa ký nhiều điều ước quốc tế về mua bán với các nước ngoài, đặc biệt là các nưóc phát triển, nên điều ước quốc tế về thương mại với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chưa phát huy thật sự vai trò của nó.