Mục lục bài viết
- 1. Tư vấn hạch toán lãi vay ngân hàng của công ty ?
- 2. Trả trước tiền vay Ngân hàng có tính lãi suất không ?
- 3. Tư vấn về lãi suất và tiền phạt đối với hợp đồng cho vay ?
- 4. Vay nợ dân sự với lãi suất cao nên không trả bị kiện thì tòa án xử lý thế nào ?
- 5. Thi hành án chậm, tiền lãi gửi ngân hàng thuộc về ai ?
1. Tư vấn hạch toán lãi vay ngân hàng của công ty ?
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Thứ nhất, công ty con hoạch toán độc lập phản ánh số vốn công ty mẹ đầu tư vào tài khoản 411.
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 67 Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính : Hướng dẫn Chế độ kế toán Doanh nghiệp quy định về nguyên tắc kế toán:
"a) Tài khoản này dùng để phản ánh vốn do chủ sở hữu đầu tư hiện có và tình hình tăng, giảm vốn đầu tư của chủ sở hữu. Các công ty con, đơn vị có tư cách pháp nhân hạch toán độc lập phản ánh số vốn được công ty mẹ đầu tư vào tài khoản này.
Tùy theo đặc điểm hoạt động của từng đơn vị, tài khoản này có thể được sử dụng tại các đơn vị không có tư cách pháp nhân hạch toán phụ thuộc để phản ánh số vốn kinh doanh được cấp bởi đơn vị cấp trên (trường hợp không hạch toán vào tài khoản 3361 – Phải trả nội bộ về vốn kinh doanh)".
Thứ hai, cần phải xuất hóa đơn khi đi vay doanh nghiệp (không phải tổ chức tín dụng).
Theo Điều 4 Thông tư số 09/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về hình thức thanh toán trong giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng:
"Điều 4. Hình thức thanh toán trong giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng
1. Các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng (là các doanh nghiệp không thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng) khi thực hiện các giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau sử dụng các hình thức thanh toán được quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tư này.
2. Các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng khi thực hiện giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau bằng tài sản (không phải bằng tiền), đối trừ công nợ, chuyển giao nghĩa vụ nợ thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp".
Trường hợp của công ty bạn áp dụng theo Khoản 1 Điều 4 Thông tư 09/2015/TT-BTC các hình thức thanh toán được quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tư 09/2015/TT-BTC bao gồm: Thanh toán bằng Séc; Thanh toán bằng ủy nhiệm chi – chuyển tiền; Các hình thức thanh toán không sử dụng tiền mặt phù hợp khác theo quy định hiện hành.
Ta thấy, hiện tại khoản lãi vay này công ty mẹ đã đứng ra trả.Vì vậy bên bạn cần phải xuất hóa đơn tiền lãi chi hộ sang cho công ty con.
2. Trả trước tiền vay Ngân hàng có tính lãi suất không ?
Luật sư tư vấn:
Việc tính lãi suất, bạn căn cứ vào các quy định của pháp luật về tính lãi trong hạn cho các khoản vay của mình. Việc bạn trả hết tiền trong năm 2016 được xác định là trả tiền trong thời hạn trả nợ chứ không phải là được miễn hay không phải tính lãi suất như chị tổ trưởng kia trình bày. Để biết chính xác số tiền lãi phải trả cho ngân hàng, bạn tính lãi suất dựa trên các căn cứ sau:(các quyết định của TTCP có hiệu lực kể từ ngày kí).
Đối với số tiền vay kể từ khi bạn nhập học (khoảng tháng 8, tháng 9 năm 2011) đến ngày 5/6/2014, lãi suất là 0,65%/tháng (khoản 2 Điều 1 Quyết định 853/TTg ngày 3/6/2011)
Đối với số tiền vay mới kể từ ngày 6/6/2014 đến ngày 31/5/2015, lãi suất vay sinh viên là 0,6%/tháng (khoản 2 Điều 1 Quyết định 872/TTg ngày 6/6/2014)
Đối với số tiền vay mới kể từ ngày 1/6/2015 đến ngày trả tiền, lãi suất vay sinh viên là 0,55%/tháng (khoản 1 Điều 1 Quyết định 750/TTg ngày 1/6/2015)
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email:Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác!
3. Tư vấn về lãi suất và tiền phạt đối với hợp đồng cho vay ?
Nếu thợ than A không làm nữa thì phải trả toàn bộ số nợ trên. Nếu chưa trả được hoặc trả một phần nào đó thì số tiền còn lại phải trả lãi suất 1%/ngày. Trong trường hợp quá 30 ngày không làm nữa, thợ than A phải chịu phạt khoản tiền 50 triệu đồng ngoài khoản nợ tiền than trả cho chủ cơ sở vì làm dây dưa kéo dài thời gian công sức thu hồi nợ của cơ sở. Nay thợ than A không còn bán than cho nhà cháu gần 3 tháng, nhưng cố tình dây dưa không chịu trả tổng số tiền nợ than 27 triệu đồng (có sổ sách chứng minh đầy đủ).
Cháu xin nhờ luật sư tư vấn giúp cháu 3 câu hỏi sau:
1. Hợp đồng lao động ghi lãi suất 1%/ngày như vậy có vi phạm pháp luật không?
2. Khoản tiền phạt 50 triệu đồng do quá hạn phải trả có hợp pháp không? 3. Nếu bây giờ bố cháu muốn khởi kiện thì cơ sở pháp lí như thế nào? Mong luật sư tư vấn giúp cháu.
Cháu xin chân thành cảm ơn!
Trả lời:
Trong thư bạn có trình bày, bố bạn đã kí kết hợp đồng cho thợ than A nợ số tiền là 27 triệu đồng đến khi nào không làm nữa thì phải trả toàn bộ số tiền trên. Về bản chất hợp đồng giữa bố bạn và thợ than A là hợp đồng vay tài sản (Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.chứ không phải hợp đồng lao động như bạn đã trình bày- Bộ luật dân sự năm 2015) Vì vậy sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về hợp đồng vay tài sản để giải quyết như sau:
Thứ nhất, về lãi suất của hợp đồng vay
Bộ luật dân sự 2015 quy định về lãi suất đối với hợp đồng vay như sau:
"1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ"
Do trong thư bạn không trình bày rõ thời điểm cho vay nên chúng tôi chưa thể tư vấn cụ thể cho bạn được vì lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố có sự thay đổi theo từng thời điểm cụ thể. Nếu như hợp đồng vay được kí kết vào sau năm 2010 thì theo Quyết định 2868/QĐ-NHNN 29/11/2010 của Ngân hàng Nhà nước, kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2010, lãi suất cơ bản là 9%/ năm. Như vậy, lãi suất do các bên thỏa thuận sẽ không được vượt quá: 9% x 150% = 13,5%/ năm. Lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng sẽ là: 13,5 :12 = 1,125%/tháng. Bố bạn kí hợp đồng cho vay với lãi suất 1%/ngày là vi phạm quy định của pháp luật.
Thứ hai, về khoản tiền phạt do chậm trả nợ
Điều 422, bộ luật dân sự 2005 quy định về việc phạt vi phạm hợp đồng như sau:
"1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.
3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm"
Trong trường hợp của gia đình bạn, bố bạn và thợ than A đã thỏa thuận trong hợp đồng vay là ngay sau khi nghỉ việc, thợ than A phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trong trường hợp quá 30 ngày, thợ than A phải chịu phạt khoản tiền 50 triệu đồng. Do vậy, nếu đã quá hạn trả nợ 3 tháng mà thợ than A chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì phải chịu phạt vi phạm 50 triệu đồng như đã thỏa thuận.
Thứ ba, về việc khởi kiện đòi nợ
Tại điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm”. Ngoài ra, tại Điều 427 BLDS năm 2005 có quy định “ Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm”. Do đó, trong khoảng thời gian 2 năm kể từ ngày mà quyền lợi của bạn bị xâm phạm thì bố bạn có thể làm đơn khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi của mình.
Hồ sơ khởi kiện tại tòa án bao gồm:
- Đơn khởi kiện (theo mẫu);
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
- Chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình (có chứng thực hoặc công chứng).
- Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (bạn phải ghi rõ số lượng bản chính, bản sao)- các tài liệu này bạn phải đảm bảo có tính căn cứ và hợp pháp.
Dựa trên quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì tranh chấp về hợp đồng dân sự trong trường hợp của bạn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp huyện- theo đó, tòa án nhân dân cấp huyện nơi xảy ra việc thực hiện hợp đồng có quyền giải quyết tranh chấp của bạn . Theo quy định tại Điều 166 BLTTDS năm 2004, bạn có thể nộp đơn trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi đến tòa án qua bưu điện; ngày khởi kiện sẽ được tính từ ngày bạn nộp đơn tại Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
4. Vay nợ dân sự với lãi suất cao nên không trả bị kiện thì tòa án xử lý thế nào ?
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến, gọi: 1900.6162
Trả lời:
1. Về việc khiếu kiện:
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
Như vậy, muốn bảo vệ sự thật thì cần có chứng cứ có tính thuyết phục trước tòa. Nếu bà A đã có các giấy vay nợ của bạn thì bạn cần phải có bằng chứng và lý lẽ phản bác lại. Cần thu thập tất cả mọi thông tin, chứng cứ có thể liên quan đến việc bạn đã trả tiền để làm căn cứ bảo vệ quyền là lợi ích của bản thân cũng như thương lượng trước Tòa, chẳng hạn: người làm chứng bạn đã trả nợ, xác nhận trả nợ, báo cáo thống kê tài sản của các bên,...
2. Về việc có phải cho vay nặng lãi hay không?
Điều 476. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Tuy nhiên, không phải trường hợp cho vay nặng lãi nào cũng cấu thành tội cho vay nặng lãi.
Điều 163 Bộ luật Hình sự 1999 (Luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009) quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:
"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."
Theo quy định của Điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất: Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên. Theo quy định của khoản 1 Điều 476 Bộ Luật Dân sự về lãi suất thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng, nếu lãi suất cho vay gấp 10 lần mức lãi suất này thì có dấu hiệu của tội cho vay nặng lãi. Ví dụ: Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất cao nhất đối với cho vay tiền Việt Nam (đồng) kỳ hạn 3 tháng là 1%/tháng, lãi suất tối đa mà các bên có thể thỏa thuận là 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 1,5%/tháng thì hành vi cho vay tiền (VN Đồng) kỳ hạn 3 tháng với mức lãi trên 15%/tháng (gấp từ 10 lần mức lãi suất tối đa pháp luật cho phép trở lên) sẽ bị coi là cho vay lãi nặng.
Thứ hai: Có tính chất chuyên bóc lột được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn cấp bách của người đi vay để cho vay với lãi suất cao (lãi nặng) nhằm thu lợi bất chính mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
5. Thi hành án chậm, tiền lãi gửi ngân hàng thuộc về ai ?
Luật sư tư vấn:
1. Tiền lãi gửi do chậm thi hành án thuộc về ai ?
Tình huống 1: Rất mong sự hỗ trợ - tư vấn cho gia đình chúng tôi. Nội dung tóm tắt như sau:
- Vào tháng 4/2017 Gia đình tôi có mua trúng đấu giá tài sản đất và nhà ở tại Nha Trang, Khánh Hoà do cơ quan thi hành án tỉnh Khánh Hoà tổ chức bán đấu giá. - Tất cả các thủ tục bên mua đã hoàn thành theo quy định và đã có các Quyết định để tiến hành giao nhận nhà...thì trước một ngày giao nhà bên cơ quan Thi hành án có quyết định hoãn...vì lý do người mẹ gửi đơn khiếu nại (sau này toà xác định không liên quan và bác đơn).- Số tiền bên mua nhà nộp được cơ quan THA gửi vào Ngân hàng tính theo kỳ hạn 1 tháng;- Qua thời gian hơn 3 năm rưỡi thì toà án tỉnh Khánh Hoà có quyết định bác đơn khiếu nại của bên bị thi hành án;- Ngày 10/9/2020 cơ quan THA tiến hành cưỡng chế và giao nhà cho bên được thi hành án theo quy định Yêu cầu hỗ trợ tư vấn:1. Qua 3 năm 6 tháng bên mua trúng đấu giá mới nhận được nhà, sự thiệt hại về vật chất và tinh thần là rất lớn. Vậy chúng tôi phải làm gì và cá nhân, tổ chức nào phải chịu trách nhiệm bù đắp lại sự thiệt hại ấy.2. Số tiền mà bên mua đã nộp đủ và đã được gửi ngân hàng từ tháng 4/2017, cộng với lãi xuất. Bên mua đã được nhận nhà; vậy khoảng tiền lãi từ tiền bên mua gửi vào ngân hàng, bên mua có được nhận để bù đắp lại sự thiệt hại tổn thất không.Rất cảm ơn sự hỗ trợ và tư vấn!
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
Luật sư tư vấn:
Câu hỏi 1. Qua 3 năm 6 tháng bên mua trúng đấu giá mới nhận được nhà, sự thiệt hại về vật chất và tinh thần là rất lớn. Vậy chúng tôi phải làm gì và cá nhân, tổ chức nào phải chịu trách nhiệm bù đắp lại sự thiệt hại ấy?
Căn cứ khoản 3, Điều 27 Nghi định 62/2015/NĐ-CP quy định về hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án Dân sự như sau:
“Điều 27. Bán đấu giá và xử lý kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án
3. Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 15 ngày, kể từ ngày đấu giá thành.
Trong thời hạn không quá 30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài sản cho người mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Tổ chức bán đấu giá tài sản có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp trái pháp luật dẫn đến việc chậm giao tài sản bán đấu giá thành mà gây thiệt hại cho người mua được tài sản bán đấu giá thì phải bồi thường.”
Như vậy, căn cứ quy định ở trên có thể thấy tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp trái pháp luật dẫn đến việc chậm giao tài sản bán đấu giá thành mà gây thiệt hại cho người mua được tài sản bán đấu giá thì phải bồi thường.
Vậy nếu gia đình anh có đủ căn cứ cơ sở để chứng minh hành vi khởi kiện của bà N.T. B là không có căn cứ nhằm mục đích gây ảnh hưởng làm cản trở quá trình thi hành án, gây thiệt hại cho người mua được tài sản thì bà N.T.B phải bồi thường cho gia đình anh. Quy trình yêu cầu bồi thường, anh có thể làm đơn khiếu nại yêu cầu bồi thường gửi ra UBND cấp xã nơi bà N.T.B thường trú hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bà N.T.B thường trú để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Câu hỏi 2. Số tiền mà bên mua đã nộp đủ và đã được gửi ngân hàng từ tháng 4/2017, cộng với lãi xuất. Bên mua đã được nhận nhà; vậy khoảng tiền lãi từ tiền bên mua gửi vào ngân hàng, bên mua có được nhận để bù đắp lại sự thiệt hại tổn thất không?
Căn cứ khoản 4, Điều 27 Nghi định 62/2015/NĐ-CP quy định về hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án Dân sự như sau:
“Điều 27. Bán đấu giá và xử lý kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án
4. Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá.
Trong thời gian chưa giao được tài sản, cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo hình thức gửi tiền có kỳ hạn 01 tháng cho đến khi giao được tài sản, phần lãi tiền gửi được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án; trường hợp không giao được tài sản thì phần lãi tiền gửi thuộc về người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định khác.
Trường hợp đến hạn theo hợp đồng bán đấu giá tài sản mà không giao được tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá thì người này có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.”
Như vậy, theo quy định ở trên sẽ thấy trong thời gia chưa giao được tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá sẽ được xử lý theo hướng cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo hình thức gửi tiền có kỳ hạn 01 tháng cho đến khi giao được tài sản, phần lãi tiền gửi được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án; trường hợp không giao được tài sản thì phần lãi tiền gửi thuộc về người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định khác.
Trường hợp đến hạn theo hợp đồng bán đấu giá tài sản mà không giao được tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá thì người này có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.
Vậy nếu không có thỏa thuận nào khác thì phần tiền lãi gửi được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án (Tức dùng số tiền lãi đó để trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Khánh Hòa). Về phía gia đình mình có quyền khởi kiện người cản trở thi hành án để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2. Tư vấn thừa kế và giải quyết tranh chấp đất đai ?
Tình huống 2: Vợ tôi có thừa kế 1 thửa đất từ bà già vợ đã có sổ đỏ cấp năm 2000. Thửa đất này giáp ranh đất của ông cậu vợ. Năm 1999, ông này móc đất bề mặt bán và làm mất hết ranh đất hai bên, ổng móc bán gần 1 nửa đất của bà già vợ. năm đó bà già vợ đòi đi thưa ra chính quyền nhưng vợ tôi không cho vì thương mấy đứa cháu con ổng còn đi học. nay vợ tôi làm thừa kế thì ổng nhờ luật sư kiện ra tòa cản với lý do đất ổng thì mất mà diện tích tính lại phần đất vợ tôi lại tăng lên (khi cắm mốc đo đạc để làm sổ thừa kế , vợ tôi nhờ địa chính xã và có ổng tham gia, đất đo lại theo sổ đã cấp và từ 1 phía ranh còn nguyên). Ổng nhờ luật sư yêu cầu là: ổng móc đất tới đâu thì ranh đất ổng tới đó.
Tôi nhờ luật sư tư vấn dùm:
1. Nay vợ tôi có thưa lại để đòi phần đất bị ổng móc bán năm 1999 được không?
2. Ổng cố ý chiếm đất khi tuyên bố trong biên bản hòa giải rằng: ổng móc tới đâu thì đất ổng tới đó có cấu thành tội cố ý cướp đất hay không? Nhờ luật sư tư vấn và gửi qua email.
Cảm ơ luật sư./.
Trả lời:
Câu hỏi 1: Nay vợ tôi có thưa lại để đòi phần đất bị ổng móc bán năm 1999 được không?
Căn cứ Điều 158, Điều 159 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu như sau:
“Điều 158. Quyền sở hữu
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”
“Điều 159. Quyền khác đối với tài sản
1. Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.
2. Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
a) Quyền đối với bất động sản liền kề;
b) Quyền hưởng dụng;
c) Quyền bề mặt.”
Như vậy, chỉ có người sở hữu mới có các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Do đó tại thời điểm năm 1999 chủ sở hữu là ông B.V. T (đã qua đời) và bà P.T.X (đã qua đời) và sau đó là của cụ B.T.T (cũng đã qua đời) thì hiện nay không thể khởi kiện vụ múc đất bán được nữa.
Câu hỏi 2: Ổng cố ý chiếm đất khi tuyên bố trong biên bản hòa giải rằng: ổng móc tới đâu thì đất ổng tới đó có cấu thành tội cố ý cướp đất hay không?
Theo các hồ sơ tài liệu anh gửi qua cho thấy hiện nay vợ anh đang làm thủ tục thừa kế đất từ mẹ vợ anh là cụ B.V. T thì bị tranh chấp với người ông cậu.
Thực tế hiện nay phần đất có sự tăng lên và đã được ghi nhận trên GCNQSDĐ từ 3636 m2 lên 4080 m2 vào tháng 4/6/2020.
Tuy nhiên ông B. V.Th làm đơn tranh chấp khiến vợ anh không hoàn tất được thủ tục thừa kế. Sự việc này đã được UBND phường Tân Vĩnh Hiệp tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Căn cứ Điều 202 Luật Đất đai 2013 quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai như sau:
“Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
Căn cứ Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
“Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”
Như vậy, xác định vụ việc của gia đình anh thuộc vấn đề dân sự. Trường hợp ông Thành tranh chấp quyền sử dụng đất với gia đình anh thì sau khi hòa giải tại địa phương có thể khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết.
Tòa án sẽ thực hiện các thủ tục tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử trong đó có xem xét, thẩm định tại chỗ; lấy thông tin địa chính tại UBND phường Tân Vĩnh Hiệp và Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương để lấy thông tin về thửa đất. Xác định phần đất gia đình ông Thành có bị thiếu hay không, nếu sau quá trình đo đạc cả 2 gia đình đều không thiếu thì sẽ dựa vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất trên thực tế hiện nay ai đang sử dụng và ai đóng thuế sử dụng đất hàng năm để Hội đồng xét xử (HĐXX) ra quyết định.
Trường hợp 1: Nếu đất thuộc đất của gia đình ông Thành thì HĐXX sẽ tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cấp lại sổ theo diện tích đúng.
Trường hợp 2: Nếu đất của gia đình anh không có sự thay đổi thì gia đình anh có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại vì việc khởi kiện vô căn cứ gây thiệt hại cho gia đình anh.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự - Công ty luật Minh Khuê