Mục lục bài viết
1. Hiến pháp 2013 tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp khẳng định nguyên tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; "quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" (khoản 2 Điều 14). Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước Nhân dân, đồng thời, là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền công dân của mình.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013
Thấu suốt tư tưởng của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa thành những quy định, yêu cầu cụ thể đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự:
Thứ nhất, quy định mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, quy định từng biện pháp cưỡng chế tố tụng phải bị điều chỉnh chặt chẽ bởi 05 yếu tố: căn cứ; thẩm quyền; trình tự; thủ tục; thời hạn.
Thứ ba, bổ sung các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của những người tham gia tố tụng một cách chặt chẽ, khả thi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế để bảo đảm cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc tranh tụng.
Thứ tư, bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội; chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm tội, nghiêm cấm các cơ quan tố tụng đối xử với họ như người phạm tội; trường hợp đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để chứng minh tội phạm thì phải kết luận họ không có tội.
Thứ năm, rút ngắn một cách hợp lý thời hạn tạm giam để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân; buộc các cơ quan tố tụng phải tính toán kỹ thời điểm bắt giam, đồng thời tổ chức lực lượng để khẩn trương kết thúc vụ án.
Thứ sáu, quy định đầy đủ các cơ chế để người bị buộc tội thực hiện tốt quyền Hiến định “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”.
Thứ bảy, bổ sung các quy định để “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được tổ chức thực thi nghiêm túc trên thực tế; tranh tụng phải trở thành quyền và nghĩa vụ của tất cả các bên; Tòa án phải thực sự khách quan, tôn trọng và lắng nghe đầy đủ các ý kiến; phán quyết của Tòa án chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa.
Thứ tám, bổ sung và quy định cụ thể các thiết chế bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại để họ an tâm hợp tác với các cơ quan tố tụng phát hiện tội phạm.
Thứ chín, sửa đổi, bổ sung các thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm nguyên tắc “vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên”, phù hợp với chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà nước ta và các chuẩn mực quốc tế; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên chỉ tiến hành trong trường hợp cần thiết, với mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ các em sớm nhận ra sai lầm để tích cực sửa chữa, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, trở thành công dân có ích cho đất nước.
Thứ mười, bổ sung các quy định nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời, quy định nghiêm khắc các chế tài áp dụng nếu cơ quan tố tụng vi phạm quy định của luật.
3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền con người
Giá trị của suy đoán vô tội được xem xét ở hai phương diện: phương diện chứng minh và phương diện đối xử. Ở phương diện chứng minh cần bắt đầu từ vấn đề cơ bản nhất là bản chất của TTHS đó là quá trình nhận thức về sự thật của vụ án. Lý thuyết về chứng minh chỉ ra nhiều phương pháp chứng minh. Bên cạnh phương pháp chứng minh trực tiếp, người ta có thể chứng minh bằng phương pháp phản chứng (reductio ad absurdum) – tiếng La tinh có nghĩa là “thu giảm đến sự vô lý”. Theo đó, người ta sẽ chứng minh nếu một phát biểu nào đó xảy ra, thì dẫn đến mâu thuẫn về lôgic, vì vậy phát biểu đó không được xảy ra. Tuy nhiên, chứng minh trong TTHS khác với chứng minh trong toán học ở chỗ, một bài toán có thể có một nghiệm, vô số nghiệm hoặc vô nghiệm. Trong TTHS chỉ có hai kết quả hoặc có tội hoặc không có tội mà không thể có kết quả thứ ba là vừa có tội vừa không có tội. Nói cách khác trong TTHS không chứng được “có” thì phải khẳng định là “không”.
Mặt khác, suy đoán vô tội không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh mà còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Hoạt động TTHS bao gồm hai nhiệm vụ. Trước hết, nó là hoạt động bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm. Mặt khác không kém phần quan trọng là bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền. Luật TTHS trong nhà nước văn minh phải dung hoà được quyền lợi xã hội và tự do cá nhân. Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Hơn nữa, chứng minh trong TTHS là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý (lỗi) của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá bằng sinh mệnh của con người. Do đó, “nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể”. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội là hết sức nguy hiểm. Nó đồng nhất người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.
Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người luôn vô tội khi nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội.
4. Tạm giữ, tạm gian và quyền con người
Tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền con người, quyền công dân của người bị tạm giữ, tạm giam. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn buộc phải nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực thi công vụ.
Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992; Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…”; “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang…”.
Khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự…”.
Thực thi quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “… việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người”. Bên cạnh đó, người bị tạm giữ, tạm giam “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Ngoài ra, để đảm bảo tính nghiêm minh pháp luật “… cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”. Đồng thời, quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục thực hiện việc tạm giữ, tạm giam; thời hạn tạm giữ, tạm giam; thẩm quyền quyết định, thay đổi biện pháp tạm giữ, tạm giam.
5. Bảo vệ người tố giác, người làm chứng
Trước đây, BLTTHS năm 2003 đã có một số quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác, cụ thể:
- Điều 7 quy định Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
- Điểm a khoản 3 Điều 55 quy định Người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng;
- Tại khoản 3 Điều 103 quy định Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.
Dù vậy, các quy định này còn chung chung, chưa đầy đủ nên thực tiễn áp dụng gặp nhiều vướng mắc.
Khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chương (Chương XXXIV) trong phần thứ bảy (Thủ tục đặc biệt) quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Trong chương này đã quy định một cách cụ thể, rõ ràng các vấn đề sau: Những người được bảo vệ; cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ; các biện pháp bảo vệ; đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ; quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ; chấm dứt việc bảo vệ; hồ sơ bảo vệ.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm)