Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi:  1900 6162

1. Đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

1.1. Tố tụng hình sự và quyền con người

Tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dần, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để có thể phát hiện ra tội phạm, ngăn chặn các hành vi phạm tội, tiến hành các hoạt động tố tụng thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là cần thiết, khách quan, mang tính phổ biến và hậu quả của nó là hạn chế một cách trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định.

Tuy vậy, trong tố tụng hình sự có một đặc trưng là Nhà nước, một mặt vừa phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, xử nghiêm minh người phạm tội; mặt khác, Nhà nước trong quá trình điều tra, trúy tố, xét xử và thi hành án lại phải bảo đảm quyển và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan đến vụ án. Trong số những người tham gia tố tụng hình sự, có nhóm người “yếu thế" (hay nhóm dễ bị tổn thương) như người bị buộc tội, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người phải chấp hành hình phạt và nhóm những người có quyền và lợi ích liên quan như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc những người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người phiên dịch, người bào chữa. Ở đây, chúng tôi chỉ để cập chủ yếu đến quyền của nhóm yếu thế và chừng nào là quyền của những người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án.

Quyền con người trong tố tụng hình sự là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự.

1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

Quyền con người trong tố tụng hình sự được quy định trong Hiến pháp, các luật vể tổ chức và hoạt động tư pháp, chủ yếu là trong pháp luật tố tụng hình sự bởi pháp luật tố tụng hình sự chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Trong tố tụng hình sự, hoạt động tố tụng dễ xâm phạm đến quyền con người. Vì vậy hoạt động tố tụng hình sự trong mọi quốc gia phải rất thận trọng và chú trọng việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là hạn chế và ngăn chặn sự tùy tiện, lạm quyền từ phía những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người yếu thế, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm một cách bất hợp pháp quyền của họ.

Các biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm việc quy định các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định cho công dân với các tư cách tố tụng khác nhau có thể tự bảo vệ quyển và lợi ích của mình. Pháp luật tố tụng hình sự là một trong những phương tiện nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người, quyền công dân và cũng thể hiện cam kết của quốc gia về quyền con người.

Quyền con người trong tố tụng hình sự được pháp luật quốc tế đề cập tương đối cụ thể trong các văn kiện pháp lý quốc tế như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân năm 1990; Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984... được nhiều quốc gia thừa nhận và nội luật hóa.

Có thể khẳng định quyền con người trong tố tụng hình sự là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyển của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thi quyền con người trong tố tụng hình sự về cơ bản thuộc hai lĩnh vực sau:

(i) Các quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân khi họ tham gia tố tụng với tư cách người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án phải chấp hành hình phạt hoặc người có tư cách khác khi tham gia tố tụng.

Về cơ bản, những người bị tước tự do được bảo đảm các quyền sau đây:

a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục;

b) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam, giữ tùy tiện;

c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do;

d) Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài;

đ) Quyền có cơ chế khiếu nại, tổ cáo hữu hiệu;

e) Quyền đối với người chưa thành niên.

(ii) Quyền được xét xử công bằng bởi một Tòa án độc lập. Nhóm quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể như:

a) Quyển bình đẳng trước Tòa án và được xét xử bởi Tòa án độc lập, không thiên vị, công khai;

b) Quyền bào chữa;

c) Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên;

d) Quyền kháng cáo;

đ) Quyền được bổi thường khi bị kết án oan;

e) Quyền không bị xét xử hai lần vì một tội phạm;

g) Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng;

h) Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi.

2. Đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự

2.1.Khái niệm bảo đảm quyển con người trong tố tụng dân sự

Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục được pháp luật quy định để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức tại Tòa án, là thủ tục giải quyết các tranh chấp, yêu cều phát sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự do thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể. Tố tụng dân sự được bắt đầu khi quyền khởi kiện được thực hiện.

Khác với tố tụng hình sự, Tòa án không tự mình đưa vụ việc ra để phân xử mà chỉ khi có đơn yêu cầu của đương sự đến Tòa án, Tòa án mới có trách nhiệm xem xét, giải quyết. Các nước theo truyền thống thông luật (common law) như Vương quốc Anh, Hoa Kỳ quan niệm tố tụng dân sự là tố tụng “phi hình sự” và cho là đối lập với tố tụng hình sự. Theo đó, các vụ việc không liên quan đến tội phạm và hình phạt được coi là vụ việc dân sự và được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự. Còn ở các nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa (civil law), tố tụng dân sự được coi là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình với tư cách là luật tư. Tuy vậy, các quốc gia đều có điểm thống nhất coi tố tụng dân sự không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi tư của các chủ thể, mà còn nhằm bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, ổn định xã hội, hướng con người tới việc thực hiện đúng pháp luật.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 coi vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là tranh chấp dân sự đã được Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dần sự, còn việc dân sự là việc mà chủ thể không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một quyền dân sự (yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn...). Đa số các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự có một bên chủ thể là cơ quan nhà nước (cơ quan tiến hành tố tụng) có quyền ra các quyết định và thực hiện những hành vi mang tính quyền lực nhà nước buộc đương sự và các chủ thể khác phải chấp hành. Nhưng với tư cách là chủ thể khởi xướng quá trình tố tụng dân sự, các đương sự có vai trò trung tâm trong tố tụng dân sự, có quyền tự định đoạt và quyết định diễn biến của quá trình tố tụng.

Tố tụng dân sự là quy trình và thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự phải tuân thủ. Khi chủ thể yêu cầu được Tòa án bảo vệ, hệ thống tư pháp dân sự của Nhà nước được khởi động để bảo vệ quyền lợi cho họ. Vi phạm các thủ tục đó sẽ gây ra hậu quả bất lợi, thậm chí là nghiêm trọng. Thủ tục chặt chẽ và nghiêm ngặt đó nhằm tránh tình trạng lạm quyền, tùy tiện của các cơ quan và những người tiến hành tổ tụng cũng như những hành động không đúng của đương sự, bảo đảm công bằng, đúng đắn, khách quan trong giải quyết vụ việc dân sự.

Quyền con người trong tố tụng dân sự là những quyển tố tụng mà pháp luật quy định cho các đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để bảo vệ các quyền đó, trước tiên cần có một hệ thống quy định pháp luật về thủ tục tố tụng dân chủ, thuận tiện, ghi nhận đầy đủ các quyền trong tố tụng của đương sự, quy định trách nhiệm của các chủ thể tố tụng bảo đảm thực hiện quyền của đương sự, giám sát thực hiện các quy định đó và các chế tài xử lý vi phạm quyền của đương sự.

2.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự 

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự có những đặc điểm sau:

- Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự dựa trên mối quan hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng. Trước khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì đương sự đã là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Khi các quyền dần sự của họ bị xâm phạm, họ có thể tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ; buộc bồi thường thiệt hại; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền (Điều 11 Bộ luật Dân sự năm 2015). Như vậy, bảo đảm quyền con người, quyền công dần trong tố tụng dân sự là nhằm tạo cho họ khả năng và điều kiện khôi phục lại những quan hệ pháp luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động đã bị xâm phạm.

- Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dần sự Việt Nam được thực hiện trong mô hình tố tụng kết hợp giữa mô hình thẩm vấn và tranh tụng, trong đó Tòa án có vai trò rất quan trọng. Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm cho các quyền tố tụng đó được thực hiện. Do mô hình tố tụng dân sự của Việt Nam hiện nay vẫn nghiêng về mô hình tố tụng thẩm vấn nên việc bảo đảm quyền của đương sự phụ thuộc nhiều vào Tòa án. Bởi Bộ luật Tố tụng dần sự năm 2015 quy định theo hướng Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng dần sự quyết định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ (Điều 96, 97).

- Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự được thực hiện đối với tất cả các bên đương sự; họ được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng tại Tòa mà không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội.

- Bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự dựa trên các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam. Những tư tưởng về quyền con người trong tố tụng dân sự được thể hiện trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1996 và các văn kiện pháp lý quốc tế khác. Nhiều quy định tiến bộ của các công ước này đã được nội luật hóa trong pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam với những giá trị nhân văn như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp...​

Trên đây là chia sẻ của chúng tôi về nội dung "Đặc điểm về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hìn sự và tố tụng dân sự". Bạn đọc có vướng mắc pháp lý cần được hỗ trợ vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm & biên tập)